Tự sự là gì?
– Tự sự hay còn được gọi là phương thức biểu đạt tự sự (kể chuyện) là phương thức trình bày, tường thuật một chuỗi các sự việc, hiện tượng bằng cách nói, viết, vẽ. Tuy nhiên những sự việc, hiện tượng này có liên kết và dẫn đến sự việc kia, cuối cùng dẫn đến một kết thúc, thể hiện một ý nghĩa.
– Tự sự bao giờ cũng có cốt truyện và hệ thống nhân vật. Cốt truyện và nhân vật được nhào nặn nhờ một hệ thống chi tiết nghệ thuật phong phú, đa dạng, bao gồm chi tiết sự kiện tác động từ bên trong như xung đột, chi tiết nội tâm, ngoại hình của nhân vật, chi tiết tính cách, các yếu tố tác động từ bên ngoài như ngoại cảnh, phong tục, đời sống, văn hóa, lịch sử; lại còn có cả những chi tiết liên tưởng, tưởng tượng, hoang đường mà không nghệ thuật nào tái hiện được.
– Cấu trúc của một bài văn tự sự gồm ba phần:
+ Mở bài: Giới thiệu con người, sự vật hay sự việc chính của câu chuyện.
+ Thân bài: Tường thuật, kể lại diễn biến câu chuyện, sự việc theo một trình tự nhất định,. Qua đó khái quát lên được tư tưởng, ý nghĩa mà người kể muốn biểu đạt.
+ Kết bài: Kết thúc câu chuyện. Đánh giá chung và bài học rút ra từ người kể chuyện
– Đặc điểm của văn tự sự:
+ Nhân vật trong văn tự sự là nhân vật trung tâm trong văn tự sự. Mọi hoạt động, hiện tượng đều xoay quanh nhân vật. Tư tưởng của văn bản, của tác giả được thể hiện qua nhân vật chính. Nhân vật được thể hiện qua các mặt: tên gọi, lai lịch, tính nết, hình dáng, việc làm,…
+ Sự việc được trình bày trong thời gian, địa điểm cụ thể, do nhân vật cụ thể thực hiện, có nguyên nhân, diễn biến, kết quả,… Sự việc trong văn tự sự được sắp xếp theo một trật tự do người kể chuyện quyết định.
+ Chủ đề của văn tự sự khá đa dạng, mỗi câu chuyện đều mang một ý nghĩa và thuộc một chủ đề nhất định, cũng có văn bản có nhiều chủ đề, trong đó có một chủ đề chính.
+ Lời văn tự sự chủ yếu là văn kể người, kể vật, kể việc. Với văn kể người thì cần giới thiệu tên, tính cách, ngoại hình…. Khi kể việc thì kể các hành động, việc làm, kết quả và sự đổi. Và thường được viết theo kiểu diễn dịch.
– Thứ tự kể chuyện thông thường được kể theo thứ tứ tự thời gian, việc gì xảy ra trước kể trước, việc gì xảy ra sau kể sau, cho đến hết. Nhưng để gây bất ngờ, gây chú ý, hoặc thể hiện tình cảm nhân vật, người ta có thể đem kết quả hoặc sự việc hiện tại kể ra trước, sau đó mới nêu diễn biến ở sau
– Ngôi kể chuyện thường khá đa dạng, với những ngôi kể khác nhau. Khi kể chuyện bằng ngôi thứ nhất thường để bộc lộ những tâm tư tình cảm, suy nghĩ trực tiếp của nhân vật. Khi kể theo ngôi thứ ba sẽ tạo được sự khách quan với câu chuyện được kể, phạm vi câu chuyện được kể cũng lớn hơn. Với ngôi kể kể giấu mình, người kể chuyện có vai trò dẫn truyện, dẫn dắt người đọc đi vào câu chuyện và đưa ra những đánh giá hay bộc lộ thái độ, cảm xúc một cách khách quan nhất. Mỗi ngôi kể lại phù hợp với các yêu cầu hoàn cảnh, cốt truyện khác nhau.
Phân loại tự sự
Tự sự còn được phân loại theo các thể loại dưới đây:
Tiểu thuyết
Đặc điểm:
- Tiểu thuyết chính là thể loại lớn nhất trong loại tác phẩm tự sự, đặc biệt phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ cận và hiện đại. Ðây là một thể loại không bị giới hạn về dung lượng phản ánh hiện thực, cả về không gian cũng như yếu tố thời gian. Thông qua tiểu thuyết, người đọc có thể hiểu được một giai đoạn lịch sử với nhiều sự kiện, kèm theo nhiều cảnh ngộ, địa điểm, tình huống…mà khó có thể loại nào có thể đạt được. Các yếu tố khác của tác phẩm văn học từ đề tài, chủ đề, nhân vật, kết cấu…cũng đều chịu sự chi phối của đặc điểm này.
- Tiểu thuyết miêu tả cuộc sống trong từng tính chất văn xuôi. Nó thể hiện bức tranh cuộc sống như một thực tại cùng thời và hấp thu vào bản thân mọi yếu tố ngổn ngang đầy bề bộn của cuộc đời…bao gồm những yếu tố: bi – hài, cao cả – thấp hèn, vĩ đại – tầm thường, lớn – nhỏ…Chính dung lượng phản ánh hiện thực rộng lớn đã giúp nhà văn miêu tả nhân vật và hoàn cảnh một cách đầy đủ, toàn diện và tỉ mỉ từ những trạng thái tâm hồn cũng như những mối quan hệ đa dạng pha lẫn sự phức tạp khác.
Kết cấu:
- Tiểu thuyết thường sẽ có nhiều dạng thức kết cấu tùy theo yêu cầu của đề tài, chủ đề hoặc theo sở trường của người viết. Thậm chí người ta còn cho rằng, theo như nguyên tắc, tiểu thuyết không có một hình thức thể loại hoàn kết, bởi vì bản chất của nó là “sử thi của thời đại chúng ta”, tức là sử thi của những cái hiện tại, cái đang đổi thay mỗi ngày, bởi vì điều quan trọng đối với nó chính là sự tiếp xúc tối đa với cái thực tại dang dở khi chưa hoàn tất, cái thực tại đang dần thành hình, cái thực tại luôn bị đánh giá lại, tư duy lại.
- Tuy thường gặp những vấn đề như: kết cấu chương hồi, kết cấu tâm lý, kết cấu luận đề, kết cấu đơn tuyến, kết cấu đa tuyến… Nhưng tiểu thuyết vẫn không chịu được những chế định chặt chẽ, nó không có bất kỳ quy phạm cố định nào và người viết thậm chí có thể phá vỡ những khuôn mẫu sẵn có để có thể vận dụng một cách linh hoạt và sáng tạo các hình thức kết cấu khác nhau.
Nghệ thuật kể chuyện:
- Cũng như các hình thái tự sự khác, tiểu thuyết đã lấy nghệ thuật kể chuyện làm giọng điệu chính của tác phẩm. Thông thường ở tác phẩm sẽ xuất hiện người kể chuyện như một nhân vật trung gian có nhiệm vụ miêu tả và kể lại những diễn biến của chuyện. Tuy sự tồn tại của những yếu tố này là ước lệ nghệ thuật của nhiều thể loại thuộc tự sự, nhưng nghệ thuật kể chuyện của tiểu thuyết vẫn cho thấy sự đa dạng đặc biệt là về phong cách: có thể thông qua nhân vật trung gian, có thể là nhân vật với danh xưng “tôi”, cũng có thể là một nhân vật khác trong tác phẩm, tất cả đều tạo nên các tác phẩm có một điểm nhìn trần thuật.
Truyện ngắn
Đặc điểm
- Ðây là một loại văn xuôi tự sự có hình thức ngắn gọn. Tuy nhiên, đặc trưng của truyện ngắn không phải chỉ vì bản chất nó ngắn mà chủ yếu là cách nắm bắt và lột tả được hiện thực cuộc sống.
- Nhà văn thường sẽ hướng tới khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất nào đó trong chính những quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người. Trong truyện ngắn, nếu nhà văn đặt quá nhiều vấn đề, thì câu chuyện sẽ dễ bị loãng. Tập trung về sự kiện, tập trung về chủ đề, về ấn tượng mới chính là là yêu cầu của truyện ngắn
- Về phần nhân vật của truyện ngắn thường không nhiều và cuộc đời của nhân vật có xu hướng được miêu tả như một khoảnh khắc, mảnh nhỏ nhưng lại có ý nghĩa xuyên suốt cuộc đời nhân vật. Vì vậy, nhịp điệu truyện ngắn mang tính khẩn trương, gấp rút, kết hợp nhiều yếu tố bất ngờ, chuyển đoạn đột ngột trong giới thiệu, bố cục và kết thúc câu chuyện.
Kết cấu:
- Truyện ngắn buộc phải có cốt truyện, nghĩa là phải có các sự kiện, tình tiết, các biến cố xảy ra liên tiếp, sự việc này nối tiếp sự việc kia, hoặc là sự việc này làm nảy sinh sự việc kia, mọi thứ dồn đẩy đạt đến đỉnh điểm của mâu thuẫn và buộc phải giải quyết. Khi mọi vấn đề được giải quyết xong thì chính là lúc truyện kết thúc.
- Truyện ngắn có khả năng thể hiện chính xác nhân vật trong một phần hoặc toàn bộ cuộc đời. Miêu tả chân thật đến từng tính cách, số phận nhân vật thông qua hình dáng, tâm trạng, lời nói và hành động biểu hiện hằng ngày, cũng như trong những tình huống, biến cố đặc biệt. Tùy theo lối kể chuyện của tác giả mà nhân vật có thể được miêu tả tỉ mỉ và chi tiết trong sinh hoạt lẫn đời sống tâm lý, thông qua cách sử dụng ngôn ngữ.
- Với mức dung lượng nhỏ hơn truyện vừa và cốt truyện gồm những sự kiện diễn ra trong một khoảng thời gian và không gian bị hạn chế. Chính vì thế, truyện ngắn thường được độc giả đọc liền một mạch không ngừng nghỉ.
- Truyện ngắn thường miêu tả sâu sắc một mảng của cuộc sống, một vài biến cố tình cờ xảy ra trong một giai đoạn nào đó của đời sống nhân vật, phô diễn được một mặt của vấn đề nào đó trong xã hội.
- Để thể hiện nổi bật tư tưởng chủ đề cũng như khắc hoạ sắc nét tính cách nhân vật, truyện ngắn đòi hỏi nhà văn phải đạt đến trình độ điêu luyện, biết mạnh dạn gọt tỉa và dồn nén để vừa vặn trong một khuôn khổ ngắn gọn, những truyện ngắn xuất sắc vẫn có thể biểu hiện được những vấn đề của xã hội có tầm khái quát rộng lớn.
Nghệ thuật kể chuyện:
- Yếu tố cần nhất chính là sự phong phú và linh hoạt về ngôn ngữ. Truyện ngắn có vô vàn hình thức ngôn ngữ khác nhau. Ngoài ngôn ngữ của người kể, thì còn có ngôn ngữ nhân vật, mỗi nhân vật đều có đặc điểm ngôn ngữ riêng.
- Bên cạnh lời đối thoại giữa các nhân vật còn có những lời độc thoại nội tâm của từng nhân vật. Lời kể có khi là lời tác giả, cũng có khi lại hòa nhập vào lời nhân vật và ngược lại. Chính vì thế mà ngôn ngữ trong truyện ngắn có xu hướng sinh động và đa dạng.
- Truyện ngắn thường thông qua lời kể và lời miêu tả của tác giả để tái hiện những việc làm, hoặc những biến cố xung quanh cuộc đời của một hay nhiều nhân vật. Thông qua đó nhằm tái dựng lại một bức tranh đời sống trong giai đoạn lịch sử nào đó đang diễn ra một cách khách quan. Từ đó bày tỏ những suy nghĩ, nói lên nhưng cảm nhận, đánh giá thái độ và quan điểm của người viết về một vấn đề xã hội nào đó.
Truyện vừa
- Truyện vừa là một thể loại tự sự cỡ trung bình, xét về dung lượng thì đứng giữa tiểu thuyết và truyện ngắn. Do có điểm giống nhau về phương pháp xây dựng điển hình cũng như hình thức biểu hiện nên ranh giới giữa truyện vừa và tiểu thuyết rất dễ nhầm lẫn.
- Sự phân biệt trước hết giữa truyện vừa và tiểu thuyết chủ yếu chính là dung lượng hiện thực, biểu hiện ở số lượng nhân vật, ngay trong khuôn khổ cốt truyện và ngay cả ở số trang, vì thường một truyện vừa từ 150 trang trở lại.
- Tuy nhiên, điều cần chú ý là truyện vừa mang tính trần thuật cô đọng và súc tích hơn tiểu thuyết. Nếu như tiểu thuyết nặng về miêu tả thì truyện vừa chú ý nhiều hơn đến yếu tố thuật, vì vậy dung lượng thường sẽ ngắn hơn. Như vậy, giữa truyện vừa và tiểu thuyết, ngoài dung lượng hiện thực được thể hiện, thì còn có sự khác nhau ở nguyên tắc tái hiện hiện thực nữa.
Sử thi
Đặc điểm:
- Đây là tác phẩm theo thể tự sự, có nội dung hàm chứa những bức tranh rộng và hoàn chỉnh về đời sống chân thật của nhân dân với nhân vật trung tâm, bao gồm những vị anh hùng, dũng sĩ đại diện cho một thế hệ.
- Nổi bật là sử thi anh hùng, các tác phẩm thường có xu hướng đề cập đến những vấn đề chung của cộng đồng, của xã hội và của đất nước. Đồng thời, còn nhắc đến những sự kiện có ý nghĩa lịch sử liên quan đến vận mệnh, cũng như sự sống còn của cả cộng đồng.
- Xây dựng hình tượng: Các nhân vật, hình tượng trong các tác phẩm luôn mang cảm hứng sử thi, dù là những con người bình dị mộc mạc thuộc nhiều tầng lớp, lứa tuổi kể cả thành phần dân tộc… tất cả đều mang trong mình những phẩm chất anh hùng, thể hiện tầm vóc lớn lao, kết tụ sức mạnh và ý chí cũng như phẩm chất chung của cả cộng đồng. Số phận cá nhân được gắn chặt với số phận cộng đồng. Các vấn đề đời tư hầu như cũng không được đặt ra, nếu có thì cũng chỉ mang ý nghĩa nhằm nhấn mạnh thêm trách nhiệm và tình cảm của người anh hùng với cộng đồng.
- Ngôn ngữ: Ngôn ngữ thường mang tính chất trang trọng, giàu hình ảnh, có tính biểu tượng cao và giàu giá trị gợi cảm. Giọng điệu tác phẩm thường mang một âm hưởng hùng tráng, lay động và khích lệ mạnh mẽ đến tình cảm người đọc.
- Các tác phẩm mang cảm hứng sử thi luôn khoác chiếc áo của sự lạc quan, niềm tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước, cũng như thắng lợi vẻ vang của dân tộc. Khi xây dựng những hình tượng, nhân vật, thường sẽ lấy nguồn cảm hứng khẳng định, ngợi ca, tự hào…Chính vì thế, cảm hứng sử thi thường gắn với cảm hứng lãng mạn.
Thể loại:
- Sử thi anh hùng dân gian: sẽ kể về những bậc thủy tổ – những vị anh hùng văn hóa, về các tích truyện dũng sĩ hoặc xa xưa hơn nữa là các truyền thuyết lịch sử, các bài tụng ca.
- Sử thi cổ điển: nhân vật thường là các dũng sĩ kiêm thủ lĩnh hoặc các chiến binh đại diện dân tộc ở tầm lịch sử. Bên cạnh đó, còn có các kẻ thù của họ thường được đồng nhất với bọn xâm lược, những kẻ áp bức, ngoại bang và dị giáo.
- Sử thi anh hùng: trong những tác phẩm sử thi anh hùng cỡ lớn sẽ thể hiện sự tương quan giữa yếu tố cá nhân anh hùng và yếu tố sử thi tập thể một cách rõ rệt. Song, những yếu tố này đủ để bộc lộ tính tích cực cá nhân và đã trở thành công cụ đắc lực cho sự biểu hiện yếu tố toàn dân cũng như toàn dân tộc.
Ngụ ngôn
Đặc điểm:
- Chính là một thể loại của văn học giáo huấn, nội dung xoay quanh về đạo đức, có hình thức thơ hoặc văn xuôi tương đối ngắn, kèm theo sử dụng phúng dụ như một nguyên tắc tổ chức tác phẩm.
- Đặc điểm nổi bật cấu trúc của ngụ ngôn hầu như không có biến đổi trong suốt quá trình lịch sử của thể loại. Đó là do sự phụ thuộc bởi tính chất, đối tượng và chức năng của nó. Ngụ ngôn là một trong những kiểu truyện phúng dụ bằng thơ hoặc văn xuôi rất ngắn, nhưng mang nội dung giáo dục đạo đức. Bài học đạo đức trong những tác phẩm toát ra từ việc chế giễu các tính cách cũng như đặc điểm tiêu cực nào đó của con người. Tuy nhiên, phần lớn là các thói xấu, nhược điểm của con người đã được thể hiện rõ ràng trong các hình tượng loài vật như chim, cá, thú, gia súc… Phúng dụ của ngụ ngôn thường sẽ dựa trên các đặc điểm tiêu biểu, mang tính thông dụng của các loài vật (như cáo ranh mãnh, sư tử khỏe mạnh, thỏ nhút nhát,..). Cốt truyện ngụ ngôn vừa ngắn vừa hàm súc, nhưng giàu sức biểu hiện, bộc lộ bản chất của đối tượng, và hình thức phúng dụ chính là trợ giúp đắc lực cho sự thuyết minh tính cách của nhân vật ngụ ngôn.
- Ngụ ngôn không chỉ gửi gắm ý nghĩa giáo dục và đạo đức, mà còn ít nhiều mang ý nghĩa triết lý về nhận thức luận hoặc về chính trị.
Cấu trúc:
- Hầu hết các tác phẩm ngụ ngôn thường được chia thành hai phần: phần thứ nhất sẽ truyền đạt một hiện tượng hay một nhân vật, sự kiện buồn cười. Còn phần thứ hai là bài học đạo đức. Tuy nhiên, không nhất thiết mọi tác phẩm ngụ ngôn cũng đều có cấu trúc tương tự. Bên cạnh đó, cũng có nhiều tác phẩm phần 2 bị lược đi, vì bài học đã thoát ra từ cốt truyện.
Như thế nào là một bài văn tự sự?
Văn tự sự là văn kể chuyện, trình bày một chuỗi các sự việc nối tiếp và có liên hệ mật thiết với nhau. Cuối mỗi bài văn luôn là những kết thúc có ý nghĩa về một phương diện nhất định trong cuộc sống.
Mục đích chính của văn tự sự là giúp người đọc hiểu hơn về sự việc, sự vật, và con người trong mỗi câu chuyện. Từ đó, mang đến cho họ góc nhìn hoặc bài học hữu ích.
Bố cục làm bài văn tự sự thường gồm 3 phần chính:
- Mở bài: Giới thiệu sơ lược sự việc và nhân vật chính trong câu chuyện.
- Thân bài: Trình bày diễn biến các sự việc theo một trình tự liền mạch và có mối liên kết mạch lạc với nhau. Trong đó, đan xen cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật hoặc người kể chuyện cho bài văn thêm sinh động.
- Kết bài: Nêu phần kết truyện và bày tỏ thái độ cũng như ý nghĩa muốn truyền đạt của người kể đến đọc giả.
Hướng dẫn cách viết bài văn tự sự cuốn hút
Lưu ý 1: Phân tích đúng thể loại tự sự đề bài đang yêu cầu
Việc đầu tiên bạn cần làm trước khi đặt bút viết văn tự sự là nhận định và phân tích đúng thể loại mà đề bài đang yêu cầu. Từ đó, có cách diễn đạt đúng đắn cho từng thể loại.
Có 4 dạng bài tự sự phổ biến nhất là:
- Kể chuyện dựa trên những câu chuyện có sẵn: yêu cầu giữ nguyên cốt truyện, chỉ đổi mới phần diễn đạt bằng lời văn cá nhân sao cho sáng tạo, hấp dẫn.
- Kể về sự việc đời thường: yếu tố quan trọng nhất là chọn sự việc đúng với thực tế và dẫn dắt diễn biến câu chuyện theo trình tự hợp lý.
- Kể về con người: có thể chọn một hoặc nhiều người để kể, tập trung kể về hành động người đó đã làm hoặc sự việc họ đã trải nghiệm. Lưu ý, có giới thiệu về ngoại hình, tính cách nhân vật nhưng tránh viết quá nhiều, dễ bị lạc sang văn miêu tả.
- Kể một câu chuyện tưởng tượng: đây là dạng đề khó làm nhất; đòi hỏi học sinh phải có kỹ năng xây dựng câu chuyện và óc sáng tạo phong phú các yếu tố như: thiết kế tình huống truyện, hoạt động của các nhân vật diễn ra trong không gian, thời gian như thế nào, tâm tư, tình cảm, suy nghĩ của họ ra sao.
Lưu ý 2: Trình bày và sắp xếp các sự việc theo trình tự hợp lý
Bản chất của văn tự sự là chuỗi các sự kiện diễn ra liên tiếp, nối kết nhau. Bởi lẽ đó, câu chuyện nên được thể hiện theo một trình tự hợp lý, mạch lạc.
Dù cốt truyện phức tạp hay đơn giản thì vẫn phải đảm bảo về mặt ý nghĩa và được đặt trong bối cảnh thời gian, không gian cụ thể, có nguyên nhân, diễn biến và kết quả rõ ràng.
Bên cạnh đó, người viết có thể thêm một số tình huống bất ngờ cho cốt truyện, nhằm biểu đạt tư tưởng bản thân theo cách độc đáo hơn để dễ dàng chinh phục người đọc. Với kho thư viện bài giảng điện tử sẽ giúp các em học sinh có thể dễ dàng nắm vững kiến thức trọng tâm của từng môn học.
Lưu ý 3: Xây dựng hệ thống nhân vật cho câu chuyện
Nhân vật trong văn tự sự là yếu tố then chốt thực hiện các sự việc, truyền tải tính nghệ thuật của bài văn cũng như làm nổi bật lên vấn đề cần nghị luận.
Vì thế, việc xây dựng hệ thống nhân vật cho câu chuyện là bước không thể thiếu và cần được triển khai theo trình tự sau:
Bước 1: Xác định số lượng nhân vật cần thiết cho cốt truyện; đồng thời chọn ra ai là nhân vật chính, ai là nhân vật phụ.
Bước 2: Mỗi nhân vật đều nên có phần giới thiệu cụ thể về xuất thân, ngoại hình, tính cách, càng giống nguyên mẫu ngoài đời càng tốt để người đọc dễ dàng liên tưởng.
Bước 3: Tạo nên những tình huống, số phận, lời thoại cho nhân vật, lưu ý là giữa họ phải có sự liên kết nhất định với nhau.
Lưu ý 4: Chọn ngôi kể và lời kể linh hoạt cho từng ngôi
Người kể chuyện trong văn tự sự có thể chọn ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ ba để xây dựng câu chuyện. Trong đó, ngôi thứ nhất thể hiện quan điểm theo cách trực diện, mang tính chủ quan còn ngôi thứ ba theo hướng khách quan, dễ đưa ra bình luận cho sự việc hơn.
Theo tính chất kể trên, mỗi ngôi kể cần được cân nhắc, chọn lọc về phần lời kể thích hợp. Tuy nhiên, không nên dùng một giọng văn đơn điệu xuyên suốt bài làm mà cần thay đổi linh hoạt cách xưng hô, lời thoại sao cho sinh động, phù hợp ngữ cảnh.
Lưu ý 5: Kết hợp khéo léo với các phương thức biểu đạt khác
Phương pháp làm văn tự sự hay và hiệu quả nhất là kết hợp khéo léo với các phương thức biểu đạt khác, như: biểu cảm, miêu tả, và nghị luận.
Một bài văn tự sự hoàn chỉnh là khi có sự đan xen vào mỗi sự việc phần miêu tả con người, sự vật xung quanh, hoặc thể hiện tâm tư, biểu cảm của nhân vật qua lời nói, hành động cụ thể và nhất là diễn đạt tư tưởng bản thân qua câu chuyện.
Tuy nhiên, các phương thức biểu đạt này nên có “tần số xuất hiện” nhất định, tránh lạm dụng quá nhiều, dẫn đến lạc đề, sa đà vào một thể loại văn học khác.
Lưu ý 6: Chọn lọc từ ngữ phong phú, phù hợp với ngữ cảnh câu chuyện
Cách làm một bài văn tự sự hấp dẫn không thể bỏ qua bước chọn lọc ngôn từ.
Hệ thống từ ngữ Việt Nam vô cùng phong phú. Một từ có thể có nhiều cách biểu đạt khác nhau, tùy vào ngữ cảnh câu chuyện, sự việc mà các bạn chọn loại từ phù hợp.
Đặc biệt, với các từ loại như tính từ để miêu tả ngoại hình, tính cách của con người, sự vật hoặc động từ để mô phỏng hành động chủ thể lại càng cần được vận dụng linh hoạt. Nhờ vậy, hình tượng nhân vật mới được khắc họa rõ nét.
Phân biệt tự sự, miêu tả, biểu cảm
Tự sự
Là dùng ngôn ngữ để kể về một chuỗi sự việc, sự việc này sẽ dẫn đến sự việc kia và cuối cùng tạo thành một kết thúc. Ngoài ra, người ta thường không chỉ chú trọng đến việc kể, mà còn quan tâm đến việc khắc hoạ chân thật những tính cách nhân vật và nêu lên những nhận thức sâu sắc đầy mới mẻ về bản chất của con người và cuộc sống.
Cách để nhận biết phương thức tự sự: có cốt truyện, có nhân vật, có diễn biến sự việc, có những câu văn trần thuật. Tự sự thường sẽ được sử dụng trong truyện, tiểu thuyết, văn xuôi nói chung và đôi khi còn được dùng trong thơ (khi muốn kể sự việc).
Miêu tả
Là dùng chính ngôn ngữ để làm cho người nghe, người đọc có thể hình dung được cụ thể những sự vật, sự việc một cách rõ ràng, hệt như đang hiện ra trước mắt hoặc có thể nhận biết được thế giới nội tâm của con người.
Dấu hiệu để nhận biết phương thức miêu tả: Có các câu văn, câu thơ tái hiện lại từ hình dáng, diện mạo cho đến màu sắc,… của người và sự vật (tả người, tả cảnh, tả tình,….)
Biểu cảm
Là dùng ngôn ngữ để có thể bộc lộ tình cảm, bày tỏ những cung bậc cảm xúc của mình về thế giới xung quanh.
Dấu hiệu để nhận biết phương thức biểu cảm: Có các câu văn, câu thơ miêu tả nguồn cảm xúc, thái độ chân thật của người viết hoặc của nhân vật trữ tình (Lưu ý, cảm xúc của người viết, chứ không hẳn là cảm xúc của nhân vật trong truyện).
********************
Đăng bởi: THPT Ngô Thì Nhậm
Chuyên mục: Giáo Dục