Đề bài: Phân tích khổ 2 của bài thơ Nói với con
Phân tích khổ 2 của bài thơ Nói với con
Bạn đang xem: Phân tích khổ 2 của bài thơ Nói với con
I. Dàn ý Phân tích khổ 2 của bài thơ Nói với con (Chuẩn)
1. Mở bài:
Giới thiệu khái quát về tác giả Y Phương, bài thơ Nói với con và dẫn dắt vào khổ thơ thứ hai
2. Thân bài:
* Lời ca ngợi về đức tính cao đẹp của “người đồng mình”– Người đồng mình tuy sống trong vất vả nhưng mạnh mẽ, kiên cường bền bỉ, luôn gắn bó với quê hương dù có phải cực nhọc, nghèo đói:+ “Người đồng mình”: tiếng gọi thân thương, gần gũi chỉ những người sống cùng một vùng, rộng hơn là người trong một dân tộc, một đất nước.+ “Cao” và “xa” gợi ra những khó khăn, thách thức mà con người phải trải qua…(Còn tiếp)
>> Xem chi tiết Dàn ý Phân tích khổ 2 của bài thơ Nói với con tại đây.
II. Bài văn mẫu Phân tích khổ 2 của bài thơ Nói với con
1. Phân tích khổ 2 của bài thơ Nói với con của Y Phương, mẫu số 1 (Chuẩn)
Lấy cảm hứng từ tình yêu thương con và ước mong thế hệ mai sau sẽ gìn giữ, phát huy những truyền thống của quê hương, dân tộc, nhà thơ Y Phương đã sáng tác bài thơ “Nói với con”. Bài thơ xuất phát từ tình cảm gia đình, mở rộng ra là tình yêu quê hương đất nước. Đặc biệt trong khổ thơ thứ hai, nhà thơ đã bộc lộ rất rõ niềm tự hào, kiêu hãnh về sức sống mạnh mẽ, đức tính tốt đẹp và truyền thống cao đẹp của quê hương, nhắn nhủ người con hãy phát huy truyền trống ấy.
Nếu như trong khổ thơ đầu là sự gợi nhớ về tình yêu thương của cha mẹ và sự đùm bọc của quê hương dành cho con thì đến khổ thơ thứ hai, người cha muốn nói với con về những đức tính cao đẹp của đồng bào mình, dặn dò con phải kế tục và phát huy một cách xứng đáng.
“Người đồng mình thương lắm con ơiCao đo nỗi buồnXa nuôi chí lớn”
Tiếng gọi “người đồng mình” sao mà thân thương, thân mật và gần gũi đến thế, trong phạm vi nhỏ đó là người cùng một bản, một vùng, rộng hơn đó là người cùng dân tộc cùng một đất nước. “Thương lắm” ở đây không chỉ đơn thuần là tình yêu thương mà còn chứa đựng sự đồng cảm, sẻ chia, giúp đỡ và đùm bọc lẫn nhau của con người. “Cao” và “xa” là khoảng cách của đất trời, cũng chính là những thử thách khó khăn mà người đồng mình phải chiến đấu. Người đồng mình tuy sống trong khó khăn, đói khổ nhưng biết cách vượt lên tất cả, vẫn nuôi chí lớn và không ngừng nỗ lực phấn đấu vươn lên.
“Dẫu làm sao thì cha vẫn muốnSống trên đá không chê đá gập ghềnhSống trong thung không chê thung nghèo đóiSống như sông như suốiLên thác xuống ghềnhKhông lo cực nhọc”
Mặc dù đá gập ghềnh, mặc cho thung nghèo đói nhưng cha vẫn muốn sống ở nơi mảnh đất quê hương, không vì những thiếu thốn gian khổ mà chối bỏ hay chê bai quê hương. Ngược lại phải lấy đó làm động lực để biết phấn đấu, biết vươn lên trong cuộc sống, làm nên nghị lực phi thường trong hoàn cảnh khắc nghiệt. Sống như sông, suối nghĩa là sống một cách lạc quan và mạnh mẽ, sống thủy chung với quê hương, biết chấp nhận khó khăn và vượt qua khó khăn bằng chính niềm tin, thực lực của mình. “Người đồng mình” sống trong vất vả nhưng mạnh mẽ và khoáng đạt, gắn bó chung thủy với quê hương, chấp nhận mọi khó khăn, thử thách và chiến đấu hết mình với niềm tin và ý chí của mình. Lên thác rồi lại xuống ghềnh, không màng mệt nhọc mà chỉ vững tin vào ngày mai tươi sáng, khi đó mọi khó khăn, đói nghèo sẽ tan biến.
“Người đồng mình thô sơ da thịtChẳng mấy ai nhỏ bé đâu conNgười đồng mình tự đục đá kê cao quê hươngCòn quê hương thì làm phong tục”
Hình ảnh người đồng mình “thô sơ da thịt” là ẩn dụ cho những cốt cách giản dị, mộc mạc, chất phác thật thà của người dân tộc. Tuy cũng chỉ là con người bình thường bằng da bằng thịt nhưng ý chí và tâm hồn của người đồng mình lại lớn lao chứ không hề “nhỏ bé”. Truyền thống đục đá kê cao nhà của người đồng mình mang ý nghĩa kê cao nhà cũng là kê cao quê hương, tự hào về quê hương và tự tay mình xây nên những truyền thống tốt đẹp làm cho quê hương giàu đẹp vươn lên. Ngược lại quê hương chính là cội nguồn cho những phong tục tập quán để nâng đỡ, làm động lực cho con người thêm tin yêu, tự hào.
“Con ơi tuy thô sơ da thịtLên đườngKhông bao giờ nhỏ bé đượcNghe con”
Tiếng gọi “con ơi” tha thiết, tâm tình, nhắn nhủ với con điều lớn lao nhất đó là lòng tự hào dân tộc và niềm tự tin khi con bước vào đời. Đã đến lúc con phải trưởng thành, rời xa quê hương để phát triển, đứng trước mọi hoàn cảnh, mọi khó khăn, con hãy vững tin và phải luôn tự hào với truyền thống của quê hương, hãy tự tin rằng mình không nhỏ bé mà phải vững bước trên đường đời. Hai tiếng “nghe con” là lời nhắn chứa chan tình yêu thương, nồi niềm và sự kỳ vọng con sẽ làm rạng rỡ, vẻ vang quê hương, đất nước.
Với giọng điệu thiết tha, trìu mến và đầy tình yêu thương, nhà thơ Y Phương đã thành công lan tỏa lời tâm tình của mình đến với mọi người. Hình ảnh “người đồng mình” vừa nổi bật lại thật thân thương trìu mến, ai cũng nhận ra mình cũng chính là “người đồng mình”. Từ đó thêm yêu quê hương đất nước, thêm sức mạnh để vươn lên trong cuộc sống, tự hào về truyền thống cao đẹp và vững tin sẽ xây dựng quê hương giàu đẹp bằng chính bàn tay của mình.
2. Phân tích khổ 2 của bài thơ Nói với con, mẫu số 2 (Chuẩn)
Y Phương là một nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam, ông sinh ra và lớn lên tại tỉnh Cao Bằng- cái nôi văn hóa của người Tày. Có lẽ chính vẻ đẹp của non nước Cao Bằng hùng vĩ, nên thơ cũng như bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc Tày đã thấm sâu vào tâm hồn nhà thơ, góp phần làm nên chất nghệ sĩ trong ông. Với quan niệm nghệ thuật đa chiều cùng cảm quan tinh tế của người nghệ sĩ, ông đã để lại cho văn học nước nhà nhiều bài thơ hay. Một trong số đó phải kể đến thi phẩm Nói với con- một bông hoa trong sáng và tinh khôi viết về cuộc sống và con người nơi miền Đông Bắc của Tổ Quốc. Khổ hai bài thơ đã tập trung khắc họa vẻ đẹp của “người đồng mình”.
Với người cha, tâm hồn con không chỉ được nuôi dưỡng bởi văn hóa độc đáo của quê hương, được bao bọc, chở che bởi thiên nhiên thơ mộng, hữu tình mà hơn thế con còn được sống trong tình cảm nồng hậu, nghĩa tình của người quê hương. Cơ thể con, tiếng nói con, sức sống của con được bồi đắp bao vẻ đẹp phẩm chất của “người đồng mình”:
“Người đồng mình thương lắm con ơiCao đo nỗi buồn, xa nuôi chí lớn”
“Người đồng mình” là cách gọi gần gũi, thân thiết chỉ những người cùng sinh sống trên một mảnh đất, vùng quê. “Người đồng mình” – nghe sao thân thương đến lạ!, thật gần gũi, thật tự nhiên biết bao. Ở đây, mọi người đều sống chung trong một gia đình lớn, luôn bảo vệ và chia sẻ với nhau, thấu hiểu cả những nhọc nhằn vất vả, những mong ước và chí nguyện của nhau. Người đồng mình “thương lắm ”, “thương” bởi cuộc sống còn nhiều gian khó, “thương” bởi những nhẫn nại, âm thầm, “thương” cả ý chí, bản lĩnh của người đồng mình trên mảnh đất quê hương. “Thương” ở đấy chính là sự cảm thông, thấu hiểu và sẻ chia.
“Cao đo nỗi buồn, xa nuôi chí lớn”
Tác giả đã sử dụng các tính từ “cao”, “xa”- những tính từ đặc tả không gian địa lý của vùng đất Cao Bằng, nơi mà “người đồng mình” đang sống. Một chốn không gian xa phố thị phồn hoa, nơi đây chỉ có núi cao hiểm trở. Tính từ “cao”, “xa” còn để chỉ nỗi buồn và chí lớn của con người nơi đây. Người đồng mình nén “nỗi buồn” ở lại để “chí lớn” đi xa. Tác giả đã mượn chiều kích của không gian để thể hiện tâm hồn rộng mở, phóng khoáng, thể hiện sự bền gan, vững chí của “người đồng mình”. Lời thơ giản dị thấm đẫm lòng tự hào của người cha khi kể về “người đồng mình”, qua đó, ta còn thấy được một trái tim nhạy cảm, một tâm hồn đồng điệu của tác giả với nhân dân mình, hiểu và thương cuộc sống của nhân dân mình. Từ tiếng thơ tự hào ấy, tác giả cất tiếng lòng mình gửi gắm mong muốn đến con, rằng con hãy sống một cuộc đời bản lĩnh, sống ân nghĩa, thủy chung, tiếp nối những giá trị vĩnh cửu của “người đồng
mình”:
“Dẫu làm sao thì cha vẫn muốnSống trên đá không chê đá gập ghềnhSống trong thung không chê thung nghèo đóiSống như sông như suốiLên thác xuống ghềnhKhông lo cực nhọc”.
Ba tiếng “dẫu làm sao” chất chứa cả những nhọc nhằn, vất vả của cuộc sống, chứa đựng cả những đấu tranh tâm lý bên trong người cha. “Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn” là một nốt lặng thiết tha nhưng cũng là một tiếng nói đầy quyết liệt, mong muốn con hãy gìn giữ và phát huy những giá trị làm người cao quý của “người đồng mình”. Những tính từ “gập ghềnh”, “nghèo đói”, thành ngữ” lên thác xuống ghềnh” càng khắc họa những gian nan, trắc trở, những bấp bênh, vất vả của cuộc sống. Đó là những thử thách mà bất kì ai cũng sẽ phải trải qua, bởi vậy mà cha mong con hãy dùng bản lĩnh để vượt qua. Điệp từ “sống” đứng đầu câu kết hợp với các từ phủ định “không chê” đã khẳng định một thái độ sống đầy tích cực trên hành trình cuộc đời. Hình ảnh so sánh độc đáo “sống như sông như suối’ mang trong đó cả một lời khuyên ý vị của cha cho con, rằng con hãy sống một cuộc đời tự do, rộng mở, dẫu bao thác ghềnh vẫn vượt qua, tưới mát đời bằng những giọt trong xanh.
“Người đồng mình thô sơ da thịtChẳng mấy ai nhỏ bé đâu conNgười đồng mình tự đục đá kê cao quê hươngCòn quê hương thì làm phong tục.”
“Người đồng mình” được tiếp tục sử dụng khẳng định sự gắn kết thiêng liêng của con với con người quê hương mình. Biện pháp tương phản qua hai hình ảnh “thô sơ da thịt” và “chẳng mấy ai nhỏ bé” đầy mộc mạc, giản dị càng tô đậm ý chí, nghị lực phi thường của người lao động nơi đây. Ở họ luôn khao khát được vươn ra biển lớn, luôn sống với những ước mơ, hoài bão của mình khát khao vươn đến những điều tốt đẹp. Nét vẽ gân guốc “người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương” khắc họa rõ nét tinh thần tự lực, tự cường, dựng xây quê hương giàu đẹp, bằng bàn tay và khối óc của mình họ hun đúc nền văn hóa độc đáo cho chính dân tộc mình. Quê hương cũng vậy, càng giàu đẹp, thịnh vượng thì đời sống con người càng thay đổi, vui tươi và hạnh phúc. Những câu thơ cuối khổ là khúc hát lên đường cũng là lời nhắn nhủ đầy tâm tình của cha:
“Con ơi tuy thô sơ da thịtLên đườngKhông bao giờ nhỏ bé đượcNghe con.”
Giọng diệu thiết tha, trìu mến, chất chứa tin yêu của cha trên hành trình con đi phía trước. “Lên đường” – hành động ấy con phải thực hiện trong tư thế chủ động, lấy phẩm chất của “người đồng mình” để vượt gian khó trên mỗi bước đường con đi. Chúng ta có thể còn “thô sơ” còn nghèo khó, còn cực khổ, còn vất vả, còn thiếu thốn nhưng không bao giờ “nhỏ bé”. Chúng ta sống trên đá, mang vóc hình của núi đá, vì vậy hãy mang cả ý chí mạnh mẽ, sự cứng cỏi và kiên cường của đá núi để tự tin bước vào đời. Hãy sống một cuộc đời đường hoàng, bản lĩnh, tự tin để xứng đáng với gia đinh đình, với quê hương mình.
Bằng thể thơ tự do, giọng điệu thiết tha, trìu mến, những hình ảnh giản dị, mộc mạc, mà chân thực, giàu chất thơ, Y Phương đã viết nên những vần thơ đầy đẹp đẽ. Đoạn thơ đã gợi nhắc trong mỗi chúng ta tình cảm gắn bó với con người, với truyền thống đẹp đẽ của quê hương, dân tộc mình và nuôi dưỡng ý chí vượt lên khó khăn để vững bước vào đời.
3. Phân tích khổ hai của bài thơ Nói với con, mẫu số 3 (Chuẩn)
Y Phương sinh năm 1948, tên thật là Hứa Vĩnh Sước, là nhà thơ người dân tộc Tày. Ông nổi tiếng với lối viết tự nhiên, giàu hình ảnh, lời thơ trong sáng, tự nhiên, giản dị, mang đậm âm hưởng của người dân tộc miền núi phía Bắc. Y Phương là một trong số ít các nhà thơ dân tộc thiểu số có tác phẩm được đưa vào chương trình giáo dục văn học Việt Nam. Nói với con là tác phẩm nổi tiếng nhất của nhà thơ, với cách viết gần gũi thông qua lời tâm tình của người cha với đứa con nhỏ, đặc biệt trong khổ thơ thứ hai, tác giả đã kín đáo bộc lộ được vẻ đẹp phẩm chất, tâm hồn của người đồng mình trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, dẫu còn nhiều khó khăn vất vả.
Nếu như ở khổ thơ thứ nhất tác giả tập trung thể hiện vẻ đẹp của người đồng mình thông qua cuộc sống lao động, trong những nét phong tục tập quán đặc sắc, thì đến khổ thơ thứ hai tác giả tập trung vào những nét đẹp tâm hồn, phẩm chất quý giá của người đồng bào dân tộc miền núi phía Bắc:
“Người đồng mình thương lắm con ơiCao đo nỗi buồn, xa nuôi chí lớn”
Tác giả tiếp tục sử dụng cụm từ “người đồng mình” tức là chỉ dân tộc mình, thể hiện sự gắn kết, thân thuộc của những con người có cùng nguồn cội, chung sống hòa hợp với nhau như một đại gia đình. Chính vì thế khi đóng vai trò là một thành viên trong gia đình lớn ấy người cha đã nói lên mấy chữ “thương lắm con ơi” thể hiện tấm lòng đồng cảm sâu sắc, thấu hiểu cho những nỗi vất vả, khó nhọc của những con người sống tận nơi vùng núi xa xăm. Thế nhưng những khó khăn của hoàn cảnh cũng chẳng ngăn được ý chí, tấm lòng của họ, “Cao đo nỗi buồn, xa nuôi chí lớn”. “Cao” và “xa” là hai từ ngữ ám chỉ khoảng cách địa lý và không gian sinh sống của người đồng mình với những điều kiện hết sức khó khăn. Đó là nơi rừng sâu, núi cao đầy hiểm trở, lại xa xôi so với phố thị đồng bằng, phương tiện qua lại hầu như hiếm hoi. Thế nhưng không vì thế mà “người đồng mình” chịu lùi bước, cam chịu cuộc sống vất vả, lầm lũi, mà trái lại chính những điều kiện ngặt nghèo, không gian sống đặc biệt đã trở thành nền tảng nuôi dưỡng trong lòng họ ý chí vượt khó mạnh mẽ, sự cố gắng không ngừng nghỉ. Câu thơ “Xa nuôi chí lớn” dù ngắn ngủi, giản đơn nhưng bộc lộ rõ ý chí kiên cường, bản lĩnh vững vàng, không ngại gian khó của người đồng mình trong cuộc sống. Lời thơ mộc mạc, chất liệu thô sơ nhưng thể hiện thật chân thành tấm lòng thương cảm ngậm ngùi của tác giả đối với cuộc sống của người đồng mình, đồng thời là tấm lòng lòng tự hào trước những vẻ đẹp tâm hồn đáng quý của dân tộc. Từ đó người cha nhắn nhủ với đứa con của mình những lối sống đẹp đẽ, cần phải học tập và phát huy để có thể kế thừa truyền thống, lập nên ý chí kiên cường của bản thân, hòa vào sức mạnh dân tộc mình.
“Dẫu làm sao thì cha cũng muốnSống trên đá không chê đá gập ghềnhSống trong thung không chê thung nghèo đóiSống như sông như suốiLên thác xuống ghềnh không lo cực nhọc”
Lời người cha dặn con nghe thật giản dị, mà thấm thía với các chất liệu tự nhiên như hình ảnh sông, suối, núi đá, thác ghềnh, thung lũng,… Hình ảnh thơ giản dị, gần gũi giúp cho vần thơ thêm phần tự nhiên, chân chất, gây ấn tượng mạnh với độc giả. Lời dạy của một người cha đối với đứa con nhỏ thật sâu sắc, cảm động, cha không dạy con những thứ gì quá xa xôi mà nói với con bằng những vật thể tự nhiên gắn liền với đời sống, lối so sánh giản dị, dễ dàng khắc ghi vào đầu trẻ thơ. Khuyên con rằng dẫu sống ở đâu là núi đá hay thung sâu cũng đừng bao giờ ghét bỏ, chùn bước trước điều kiện khó khăn vất vả. Thay vào đó hãy tìm cách khắc phục chúng, tìm cách thích nghi, linh hoạt như sông suối chảy từ rừng sâu, dù trải qua thác ghềnh, muôn vàn khó khăn, nhưng cuối cùng vẫn vươn ra biển lớn. Trong cuộc sống này cũng vậy, đặc biệt là khi con sinh ra và lớn lên ở vùng núi phía Bắc xa xôi thì lại càng phải kiên cường, cố gắng gấp bội, không chỉ là phục vụ cuộc sống, mà còn phải góp sức xây dựng quê hương sớm ngày giàu mạnh. Không chỉ đơn thuần là lời khuyên cha dành cho con, mà ở những câu thơ này tác giả cũng khéo léo thể hiện vẻ đẹp phẩm chất của người đồng mình, ấy là sự thích nghi với mọi hoàn cảnh, không ngại gian khó, sẵn sàng đối mặt với sự thiếu thốn, cư trú ở nơi hiểm trở mà vẫn vui vẻ sinh sống làm ăn.
Không chỉ ở ý chí vượt khó, sự kiên cường trong tâm hồn mà vẻ đẹp phẩm chất của người đồng mình còn được thể hiện thông qua những phong tục tập quán có từ bao đời nay rằng:
“Người đồng mình thô sơ da thịtChẳng mấy ai nhỏ bé đâu conNgười đồng mình tự đục đá kê cao quê hươngCòn quê hương thì làm phong tục”
Tuy rằng người dân tộc thiểu số phía Bắc những năm sau kháng chiến còn khó khăn nhiều, trong công cuộc lao động họ chủ yếu dùng chính đôi bàn tay không để sản xuất, khai hoang đất đai, tạo lập cuộc sống mới, xây dựng quê hương mình. Sự chai sần của từng đôi tay lao động và những vóc người nhỏ bé đã làm nên một vùng trời phía Bắc ngày càng trù phú, tốt đẹp, và để khẳng định sự nỗ lực, kiên cường trong lao động sản xuất ấy, Y Phương đã tinh tế viết rằng “Người đồng mình tuy thô sơ da thịt/Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”, ý rằng dẫu chỉ có đôi bàn tay không, với vóc người nhỏ bé, thế nhưng ý chí của người đồng mình luôn lớn lao, vững vàng hơn tất cả. Sống trên núi đá hoang sơ, cằn cỗi, đôi bàn tay chai sần “tự đục đá kê cao quê hương”, làm nên diện mạo mới cho, cuộc sống mới cho dân tộc mình, tạo nên những giá trị vật chất, tinh thần cho quê hương xứ sở, dẫu rằng còn lắm gian lao vất vả và hơn hết là cần một sự kiên trì mạnh mẽ. Nối tiếp câu thơ sau “Còn quê hương thì làm phong tục”, hai từ “quê hương” ở đây không đơn thuần là chỉ một vùng đất, mà nó còn là đại diện cho lớp lớp những con người đi trước đã tạo dựng, kết tinh, để lại cho thế hệ sau nhưng giá trị văn hóa, những phong tục truyền thống tốt đẹp. Trở thành bản sắc dân tộc, là thứ mà người đồng mình luôn cố gắng giữ gìn, đồng thời cố gắng phát huy hơn nữa, để nâng lên tầm vóc quê hương, xứ sở mình.
Nói với con là một trong những tác phẩm viết về đề tài người dân tộc miền núi phía Bắc đặc sắc và đáng chú ý nhất trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Bằng lối tư duy trong sáng, sinh động, lời thơ giản dị mang âm hưởng miền núi, chất liệu thơ lấy từ cuộc sống sinh hoạt, gần gũi, chất phác, tác phẩm đã mang đến cho người đọc những cảm nhận độc đáo. Nó không chỉ đơn thuần thể hiện tình yêu thương tha thiết người cha dành cho đứa con nhỏ bằng những lời dạy vừa dịu dàng vừa nghiêm khắc, mà hơn thế nữa thông qua đó tác giả còn thể hiện được những vẻ đẹp phẩm chất tâm hồn đáng quý của người đồng mình, những con người luôn nỗ lực, cố gắng, ý chí kiên cường trong cuộc sống, bền bỉ trong lao động để xây dựng quê hương, đất nước.
4. Phân tích khổ 2 của bài thơ Nói với con, mẫu số 4 (Chuẩn)
Trong nền văn học Việt Nam, Y Phương là nhà thơ có phong cách sáng tác vô cùng độc đáo qua tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của người miền núi. Điều này đã được thể hiện rõ thông qua bài thơ “Nói với con”. Bài thơ là lời người cha nói với con về cội nguồn sinh dưỡng của con. Đặc biệt, qua khổ thơ thứ hai, tác giả đã ca ngợi sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của quê hương mình, mong con tiếp nối và phát huy truyền thống tốt đẹp đó.
Bằng lời nói giản dị, mộc mạc gợi bao yêu thương và gần gũi, trong khổ thơ thứ hai, tác giả đã tái hiện thành công vẻ đẹp của người đồng mình. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp điệp ngữ thông qua cụm từ “Người đồng mình” được lặp đi lặp lại nhằm khẳng định vẻ đẹp của “người đồng mình” chính là phẩm chất của quê hương. Đặc biệt, trong khổ thơ, cách tư duy giàu hình ảnh người miền núi đã được tác giả vận dụng qua câu thơ: “Cao đo nỗi buồn/ Xa nuôi chí lớn”. Bằng lối nói cân xứng, nhịp nhàng, đăng đối giữa hai câu thơ, kết hợp sử dụng những tình từ vốn để diễn tả khoảng cách không gian như “cao”, “xa”, nhà thơ Y Phương đã khắc họa thành công vẻ đẹp của “người đồng mình”. Đó là tầm cao của lối sống tâm hồn và ý chí nghị lực phi thường của người đồng mình. Dù cuộc sống phải trải qua nhiều khó khăn, cực nhọc, nhưng họ vẫn giữ được sự lạc quan cùng niềm vui:
Sống trên đá không chê đá gập ghềnhSống trong thung không chê thung nghèo đóiSống như sông như núiLên thác xuống ghềnhKhông lo cực nhọc
Thông qua biện pháp tu từ điệp ngữ kết hợp hình ảnh so sánh cụ thể “Sống như sông như suối” cùng việc vận dụng các kiểu câu ngắn dài khác nhau, cuộc sống cùng phẩm chất của “người đồng mình” đã được khắc họa rõ nét. Dẫu phải trải qua nhiều khó khăn, “lên thác xuống ghềnh” nhưng họ vẫn sống khoáng đạt, mạnh mẽ như sông như suối. Đặc biệt là luôn giữ vững tinh thần lạc quan, niềm vui đối diện và vượt qua mọi thử thách, gian nan bằng ý chí, nghị lực và niềm tin để gắn bó với quê hương:
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hươngCòn quê hương thì làm phong tục
Thông qua việc sử dụng động từ “tự đục đá kê cao”, câu thơ đã diễn tả hành động dựng nhà dựng cửa quen thuộc của người miền núi. Tuy nhiên, quê hương vốn là một khái niệm trừu tượng, bởi vậy hình ảnh trên còn là biểu tượng ẩn dụ cho tinh thần tự tôn, ý thức bảo vệ cội nguồn của đồng bào miền núi. Bằng sự lao động cần cù, nhẫn nại, họ đang làm nên những phong tục, tập quán tốt đẹp cho quê hương. Câu thơ đã chất chứa niềm tự hào của người cha khi nói về quê hương của mình.
Qua khổ thơ thứ hai, chúng ta còn thấy được ước mong của người cha. Qua câu thơ “Dẫu làm sao thì cha cũng muốn”, tác giả đã thể hiện mong muốn con hãy kế tục xứng đáng những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình. Đặc biệt, người cha mong muốn người con đem những truyền thống tốt đẹp của quê hương trở thành hành trang để con vững bước vào đời:
Con ơi, tuy thô sơ da thịtLên đườngKhông bao giờ nhỏ bé đượcNghe con
Bằng những hình ảnh cụ thể, mộc mạc cùng giọng điệu thiết tha, trìu mến, lời dặn dò, nhắn nhủ của người cha đã được thể hiện một cách trực tiếp. Dù con đường phía trước còn nhiều chông gai, và con người chỉ “thô sơ da thịt” nhưng con “không bao giờ nhỏ bé được”. Câu thơ thể hiện mong muốn người con luôn vững bước trên đường đời bởi hành trang của con có gia đình, quê hương, bởi trong tim con vẫn luôn ẩn chứa những phẩm chất quý báu của người đồng mình. Đồng thời, người cha mong con hãy tự tin bước vào đời, hãy kế tục và phát huy xứng đáng những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Lời cha dặn là lời gửi trao thiêng liêng là lời chuyển giao của các thế hệ người Việt Nam.
Như vậy, thông qua khổ thơ thứ hai, tác giả Y Phương đã khắc họa thành công những vẻ đẹp, phẩm chất của con người, quê hương. Qua đó gửi gắm bức thông điệp về ý chí, nghị lực cùng niềm tin, ước mong con vững bước, trưởng thành và sống xứng đáng với quê hương. Tình yêu thương đối với người con đã hòa với tình yêu dân tộc, quê hương, tạo thành một tình cảm thiêng liêng, cao đẹp.
5. Phân tích khổ hai bài thơ Nói với con, mẫu số 5 (Chuẩn)
Quê hương là đề tài quen thuộc và trở thành nguồn cảm hứng bất tận để người nghệ sĩ thể hiện tình yêu sâu sắc, thấm thía. Nếu nhà thơ Đỗ Trung Quân bày tỏ tình cảm đó bằng những vần thơ tha thiết cùng giai điệu êm dịu “Quê hương là chùm khế ngọt – Cho con trèo hái mỗi ngày…” thì tác giả Y Phương lại giãi bày tình yêu thiêng liêng đó thông qua những lời tâm tình của người cha dành cho người con. Tình cảm cha con, gia đình đã được khái quát thành tình cảm quê hương hết sức tự nhiên. Điều này đã được thể hiện rõ qua khổ thơ thứ hai của bài thơ. Tác giả đã ngợi ca sức sống, những phẩm chất cao đẹp của người miền núi cùng mong ước thế hệ sau nối tiếp, phát huy những truyền thống của dân tộc, quê hương.
“Người đồng mình thương lắm con ơiCao đo nỗi buồnXa nuôi chí lớnDẫu làm sao thì cha vẫn muốnSống trên đá không chê đá gập ghềnhSống trong thung không chê thung nghèo đóiSống như sông như suốiLên thác xuống ghềnhKhông lo cực nhọc”
Tác giả vẫn sử dụng lối nói giàu hình ảnh “người đồng mình” – cách xưng hô quen thuộc, trìu mến của người vùng cao để gợi lên sự thân thương, gần gũi nhưng cùng chung một gia đình. Hệ thống từ ngữ chọn lọc, đặc biệt là động từ “thương” kết hợp với từ chỉ mức độ “lắm” để thể hiện sự đồng cảm, sẻ chia về tinh thần đối với những những khó khăn, vất vả, sóng gió. Để vượt qua những điều đó, con người quê hương đã đo nỗi buồn bằng độ cao của bầu trời vời vợi, lấy xa của đất để làm thước đo đong đếm ý chí con người. “Cao” và “xa” trong không gian đất trời đều là những khoảng không hữu hạn không điểm dừng, gợi lên tưởng đến những dãy núi cao, trùng điệp cùng sự rộng lớn, xa xăm. Sự chọn lọc ngôn ngữ tài tình, điêu luyện của nhà thơ đã thể hiện sự tăng tiến của ý chí con người: khó khăn, thử thách càng lớn thì bản lĩnh “người đồng mình” càng trở nên mạnh mẽ hơn, vượt qua cuộc sống đói nghèo, cơ cực của “đá gập ghềnh”, “thung nghèo đói”. Trải qua mọi thiếu thốn, họ vẫn lạc quan, mạnh mẽ “sống” với tâm hồn phóng khoáng như thiên nhiên: “Sống như sông như suối”. Tác giả đã sử dụng thủ pháp đối lập “lên thác” – “xuống ghềnh” để thể hiện một cuộc sống lam lũ, vất vả chốn núi rừng. Từ đó, nhà thơ đã khái quát những vẻ đẹp truyền thống của người vùng cao:
“Người đồng mình thô sơ da thịtChẳng mấy ai nhỏ bé đâu conNgười đồng mình tự đục đá kê cao quê hươngCòn quê hương thì làm phong tục”
Cách gọi thân thương “Người đồng mình thô sơ da thịt” ẩn chứa niềm tự hào về những con người giản dị, chất phác, thật thà, đồng thời là lời ngợi ca ý chí, cốt cách không hề “nhỏ bé” của họ. Phẩm chất tốt đẹp của người dân miền cao đã được phác họa trong một tầm vóc kì vĩ, lớn lao hoàn toàn đối lập với vẻ ngoài “thô sơ da thịt”. Đặc biệt, cách nói hình ảnh “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương” tạo nên một lối nói độc đáo, vừa diễn tả quá trình dựng nhà, dựng cửa làm nên truyền thống của người miền núi, vừa là hình ảnh ẩn dụ diễn tả ý thức tự tôn, tinh thần đề cao, nâng tầm, làm giàu đẹp mảnh đất quê hương. Những phong tục tập quán, truyền thống văn hóa của quê hương chính là điểm tựa tinh thần nâng đỡ và tạo động lực cho con người vượt qua mọi gian nan, thử thách.
Sau khi nêu bật những phẩm chất của “người đồng mình” bằng giọng điệu ngợi ca, tự hào, tác giả Y Phương đã khép lại bài thơ bằng những lời dặn dò ân cần, trìu mến:
“Con ơi tuy thô sơ da thịtLên đườngKhông bao giờ nhỏ bé đượcNghe con.”
Trong những câu thơ chan chứa tình yêu thương, chúng ta có thấy được niềm tin yêu, hi vọng mà người cha đã gửi gắm. Đó là mong ước khi khôn lớn, trưởng thành, tự tin “Lên đường” sải bước trên đường đời, người con vẫn khắc sâu những phẩm chất của “người đồng mình” và “không bao giờ được nhỏ bé” để bản lĩnh, kiên cường mạnh mẽ bước qua những gian khó, thử thách của cuộc đời. Lời dặn dò vì thế trở thành một bài học quý giá và có ý nghĩa giáo dục sâu sắc đối với thế hệ trẻ trong mọi thời đại.
Như vậy, bằng tài năng trong việc sử dụng ngôn từ, hình ảnh, tác giả Y Phương đã làm nổi bật những vẻ đẹp, phẩm chất cao quý của “người đồng mình”. Tất cả đã được thể hiện thông qua thể thơ tự do phù hợp với lối nói, tư duy khoáng đạt của người miền núi cùng giọng điệu thơ linh hoạt cùng sự kết hợp nhuần nhuyễn các biện pháp nghệ thuật.
——————HẾT——————-
Qua bài Phân tích khổ 2 của bài thơ Nói với con, các em đã thấy được những vẻ đẹp đáng quý của người đồng mình: thủy chung, kiên cường, tự chủ trong xây dựng quê hương. Bên cạnh đó, để khám phá hết giá trị đặc sắc của bài thơ Nói với con, các em có thể tham khảo thêm một số Bài văn hay lớp 9 có cùng chủ đề khác như: Bình giảng bài thơ Nói với con của Y Phương, Cảm nhận bài thơ Nói với con và suy nghĩ của em về trách nhiệm của người làm con?, Phân tích bài thơ Nói với con, Cảm nhận của em về khổ đầu trong bài thơ Nói Với con.
Đăng bởi: THPT Ngô Thì Nhậm
Chuyên mục: Giáo Dục