Hàn Tín là ai?
Tiểu sử của Hàn Tín
Hàn Tín được xem là bậc danh tướng kiệt xuất, bách chiến bách thắng, được người đời gọi là “binh tiên”, giúp Lưu Bang lập nên nghiệp lớn nhà Hán. Thời niên thiếu, Hàn Tín chịu nhiều tủi nhục nhưng vẫn vươn lên trở nên xuất chúng ghi danh sử sách.
Hàn Tín sinh năm 230 TCN và mất năm 196 TCN, thường được gọi theo tước hiệu Hoài Âm hầu. Ông được xem là nhà cầm quân xuất sắc, “thiên hạ vô địch, bách chiến bách thắng”. Ông sống vào thời Hán Sở tranh hùng và được Hán Cao Tổ Lưu Bang ngợi ca là “Nắm trong tay trăm vạn quân đã đánh là thắng, tiến công là nhất định lấy thì ta không bằng Hoài Âm hầu.”
Ông cùng Trương Lương và Tiêu Hà tạo nên “Hán sơ tam kiệt” danh chấn góp công giúp Lưu Bang đánh bại Tây Sở Bá vương Hạng Vũ, lập nên triều đại nhà Hán kéo dài suốt 400 năm.
Sách sử nhà Tây Hán có ghi lại, Hàn Tín là người ở Hoài Âm thuộc Sở quốc. Ông mồ côi cha mẹ từ nhỏ, nhà nghèo phải làm nghề câu cá mưu sinh. Tuy nhiên cũng có tài liệu sử học thời đó nói Hàn Tín là người có xuất thân quý tộc. Ông là người có cả tên lẫn họ. Vào thời ấy thì dân thường không có tên chỉ có họ và chỉ có giới quý tộc mới được mang đầy đủ họ tên.
Hơn nữa Hàn Tín thường xuyên đeo một thanh bảo kiếm bên mình. Đeo kiếm là tượng trưng cho thân phận quý tộc vào thời đó. Ông đã bán hết nhà cửa, chỉ xách kiếm lang thang ngoài chợ vì muốn an táng và xây cất cho mẹ một ngôi mộ khang trang trên núi cao sau khi bà mất.
Khi đi ngang qua thấy nhà ai có cơm ăn, Hàn Tín thường vào xin ăn. Đến nhà của “Hạ hương đình trưởng” – một ông quan nhỏ trong vùng mà Hàn Tín quen biết để xin ăn, được một tháng thì người vợ của vị này thấy phiền phức nên đã thổi cơm ăn trước nửa canh giờ (một tiếng đồng hồ). Khi Hàn Tín đến nhà thì bữa cơm đã xong, cơm đã hết nên ông hiểu ra và sau đó liền tuyệt giao với người này.
Tiếp đến, để kiếm miếng cơm thì ông ra sông câu cá, nhưng ăn không no do câu không được nhiều cá. Ở bờ sông lúc ấy có những phiếu mẫu (phiếu: giặt lụa, phiếu mẫu: bà lão giặt lụa) hay mang cơm theo.
Trong đó có một bà lão thấy Hàn Tín là thanh niên trẻ tuổi, cao ráo nhưng lại không có cơm ăn nên sinh lòng thương cảm, liền lấy cơm cho ông ăn. Sau này khi đã thành danh, Hàn Tín đã quay lại tìm Phiếu Mẫu này để báo ơn.
Điển tích Hàn tín chịu nhục chui háng và cái dũng của kẻ sĩ
Thưở chưa thành danh xưng bá bốn phương, có một chuyện về Hàn Tín được lưu truyền trong dân gian là việc ông đã phải “chịu nhục chui háng”.
Chuyện xưa kể lại gia cảnh của Hàn Tín thủa ấy bần cùng, áo không đủ mặc, cơm không đủ no nhưng chí hướng của ông lại cao nên khi đi ra ngoài, ông thường đeo bên mình một thanh bảo kiếm.
Cũng trong thành Hoài Âm nơi Hàn Tín ở, lúc đó có con trai của một người đồ tể là kẻ vô lại, ngang ngược, thường cậy mạnh bắt nạt người khác. Một lần, hắn ra đã chặn đường Hàn Tín ở nơi đông người nhằm hạ nhục ông. Kẻ kia ngang ngược quát lớn với ông: “Ngươi đeo kiếm làm gì? Ngươi có dám sát nhân không? Nếu ngươi dám sát nhân thì thử chặt đầu của ta xem. Nếu ngươi không dám sát nhân thì ngươi hãy chui qua háng của ta mà đi”.
Đột nhiên xảy ra sự khiêu khích này, không hề sợ hãi Hàn Tín đã nhìn thẳng vào mặt kẻ đó thật lâu mà thần sắc không hề thay đổi. Hàn Tín thật sự đã chui qua háng kẻ vô lại đó mà đi tiếp. Người chịu nỗi nhục lớn một cách thản nhiên đến như vậy có thể phân làm hai loại: Loại đầu tiên là người không có ý chí, chỉ biết hưởng an nhàn sống tạm bợ qua ngày; loại còn lại là người chí hướng cao, tầm nhìn rộng, co được, giãn được, nhẫn nhịn được.
Những người có khí tiết hơn người thường được gọi là “kẻ sĩ hào kiệt” hay “hào kiệt chi sĩ”. Khi thấy nhục, người bình thường liền không giữ được bình tĩnh mà “rút kiếm tương đấu”. Đây không phải là cái “dũng” của kẻ sĩ theo quan niệm của người xưa. Phàm trong thiên hạ, người đại dũng là người gặp nguy không kinh, cũng như khi gặp rủi ro vô cớ cũng không phẫn nộ. Có tâm đại nhẫn, có tĩnh khí mới làm nên nghiệp lớn.
Điển tích Hàn Tín chui qua háng chịu nhục vẫn còn được lưu truyền đến tận ngày nay như một tấm gương để noi theo về khả năng “nhẫn nhịn”.
Con đường trở thành công quốc khai thần nhà Hán của Hàn Tín
Hàn Tín là vị nguyên soái đã đem tài trí của mình giúp Lưu Bang đoạt thiên hạ, đánh bại Tây Sở bá Vương Hạng Vũ. Nói về Hàn Tín, người cho đây là bậc anh hùng hiếm có, nhưng cũng xem đây là bậc cơ xảo, kẻ tự tư tự lợi. Nhưng không thể khẳng định tài năng của binh tiên Hàn Tín đã đưa ông trở thành công quốc khai thần nhà Hán với công lao to lớn.
Lòng ôm chí lớn, tài năng không gặp thời
Dưới ách thống trị của nhà Tần, Trần Thắng là người đầu tiên đứng lên khởi nghĩa chống Tần vào năm 209 TCN. Theo đó, các thế lực khác cũng thi nhau nổi dậy, trong đó có thế lực của chú cháu họ Hạng là Hạng Lương và cháu là Hạng Vũ. Hàn Tín cầm kiếm ra bờ sông Vị Thủy xin tham gia vào nghĩa quân của hai chú cháu này. Hạng Vũ thấy Hàn Tín là người cao lớn, anh tuấn uy vũ, nhưng do xuất thân thấp kém, lại mang nỗi nhục chui háng kẻ khác, cho nên bị cả hai chú cháu họ Hạng xem thường và chỉ cho làm chấp kích lang (vác kích đứng hầu).
Tại trận chiến ở Đình Đào, Hạng Lương giáp chiến với Chương Hàm nhưng đối phương cố thủ không ra. Hàn Tín nhận ra âm mưu đánh úp cướp trại của Hàm nhưng khi báo với Hạng Lương thì lại bị coi thường, đuổi đi khỏi quân ngũ.
Đúng như những gì mà Hàn Tín đã dự đoán, Chương Hàm mở cửa thành đánh úp vào buổi đêm, Hạng Lương bị chém chết. Sau đó, ông vẫn ở lại làm chấp kích lang dưới trướng Hạng Vũ. Tuy nhiên, nhiều lần Tín bày mưu cho Hạng Vũ trong các trận chiến nhưng lại không được tin dùng.
Nhiều lần như thế, ông trở nên thất vọng, chán nản với Hạng Vũ, bỏ Sở theo Hán. Thế nhưng, khoảng thời gian đầu sau khi nhập quân cho Lưu Bang thì Hàn Tín cũng không được trọng dụng, cho đến khi có mối lương duyên gặp gỡ người tri kỷ là Tiêu Hà.
Tìm thấy lối thoát trong tuyệt vọng
“Cao sơn lưu thủy, tri kỷ khó tìm”, thế nhưng đối với Hàn Tín thì người ông tri kỷ nhất lại vừa là vinh, vừa có ơn nhưng lại mang oán hận mà rời xa nhân thế khó diễn đạt thành lời. Nhắc đến tri kỷ của Hàn Tín thì phải nói đến Tiêu Hà – Thừa tướng kiến lập Tiêu Hà. Cả cuộc đời của Hàn Tín thành hay bại cũng tại Tiêu Hà.
Hàn Tín đã bỏ sở theo Hán sang đầu quân cho Lưu Bang sau khi nhận thấy bản thân không được Hạng Vũ trọng dụng. Thế nhưng, Hàn Tín vẫn không được trọng dụng khi đầu quân cho Lưu Bang, cho nên chỉ giữ chức quan nhỏ, trông coi lương thảo. Bước ngoặt của Hàn Tín chỉ xảy ra sau khi gặp Tiêu Hà – người thân tín bên cạnh của Lưu Bang. Tiêu Hà đã phát hiện sở học kỳ tài của Hàn Tín sau nhiều buổi gặp mặt bàn chuyện về binh pháp hay những vấn đề liên quan khác, và ông chắc chắn rằng khó ai sánh được tài năng của Tín.
Sau nhiều ngày tại Hán Trung tiếp xúc với Tiêu Hà, nhưng vẫn không được Lưu Bang trọng dụng, Tín đành ôm nỗi thất vọng bỏ đi. Tiêu Hà nhận thức được việc để mất một kỳ tài như vậy là tổn thất lớn của nhà Hán. Do đó mà bất kể đêm hôm, Tiêu Hà đã phi ngựa đuổi theo khi nghe tin Hàn Tín bỏ doanh trại mà đi. Đây cũng chính là khởi nguồn của điển tích: “Tiêu Hà nguyệt hạ truy Hàn Tín (dưới ánh trăng, Tiêu Hà truy đuổi Hàn Tín)”. Cũng bởi vì quá vội vàng cấp bách mà ông cũng không kịp cho người bẩm báo lại cho Lưu Bang, gây ra sự hiểu nhầm khiến Lưu Bang nghĩ Tiêu Hà bỏ trốn.
Bởi vì hoàn cảnh đương thời khó khăn, cuộc sống trong doanh trại lại khổ cực nên chuyện binh sĩ đào binh rất phổ biến. Lưu Bang giật mình “thất sắc” khi thấy Tiêu Hà không từ mà biệt. Ông cho rằng đến cả người thân tín bên cạnh mình như Tiêu Hà cuối cùng cũng bỏ đi thì bản thân biết phải làm sao? Nhưng sau khi Tiêu Hà đem được Hàn Tín trở lại doanh trại và thưa với Lưu Bang: “Nếu như ngài chỉ làm một Hán Trung vương, vậy thì tại hạ đem Hàn Tín về là việc dư thừa. Nhưng nếu như ngài muốn xưng bá thiên hạ, vậy Hàn Tín lại chính là một bậc tướng tài không thể không có”.
Nghe theo kiến nghị của Tiêu Hà, Lưu Bang đã cho Hàn Tín nắm quyền thống soái quân đội. Kể từ đó, lịch sử nhà Hán bước sang một trang mới và viết nên truyền kỳ về một vị tướng Hàn Tín “điều binh khiển tướng, uy danh thiên cổ” góp phần kéo dài lãnh thổ nhà Hán. Tiêu Hà mang đến cho Hàn Tín cơ hội và thành tựu nên có thể nói cuộc đời của Tín thành bởi Tiêu Hà.
Lưu Bang sau khi lên ngôi hoàng đế và nắm giữ quyền lực cao nhất thì bắt đầu sinh lòng đố kỵ tài năng cũng như chiến công của Hàn Tín, đồng thời cũng lo lắng việc Tín sẽ mưu phản lại mình. Hàn Tín dù có công lao to lớn, giúp nhà Hán đánh chiếm hơn nửa giang sơn cũng như bao lần cứu thoát Lưu Bang và gia quyến thì Hàn Tín cũng không thể thoát khỏi kiếp nạn của mình.
Kết cục cuối cùng của một đại tướng là bị người tri kỷ của mình – Tiêu Hà bày kế lừa vào Trường Lạc Cung rồi bị Lã Hậu cho người giết chết. Sau cùng Tín bại bởi Tiêu Hà.
Công quốc khai thần một tay xây dựng cơ đồ nhà Hán
Trong Tam Kiệt – khai quốc công thần của nhà Hán, có thể nói rằng Hàn Tín đóng góp công lao lớn nhất. Một tay Tín đã diệt Tam Tần, bình định nước Hàn, sau đó giải vây cho Hán Vương ở Huỳnh Dương khi đánh bại quân nước Sở, cũng như chiến công vang dội của ông khi bắc phạt diệt các nước Ngụy, Triệu, Yên, Tề.
Nếu không có tài năng và bản lĩnh của Hàn Tín, quân Hán sẽ không thể vượt qua được Tần Lĩnh để tiến về phía Đông cũng như đảo bại thành thắng trước Sở quốc. Trong trận Cai Hạ, cũng chỉ vì có sự xuất hiện của Hàn Tín mà Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ phải rước đại bại.
Sau này, Tào Tháo luôn cố gắng đi tìm một vị tướng tài như Hàn Tín để bình định thiên hạ, nhưng nhân tài “ngàn năm có một” như Tín lại không xuất thế vào thời Tam quốc chiến.
Những trận đánh nổi tiếng gắn liền với tên tuổi của ông được hậu thế nhớ mãi và nhắc đến, cũng như xem đó là bài học về nghệ thuật quân sự, như trận thế “bối thủy” phá Triệu, ngăn nước sông Tuy Thủy giết Long Thư – danh tướng Sở quốc.
Dân gian ghi nhận rằng có nhiều thành ngữ Trung Quốc sau này nói về binh pháp được lấy từ những chiến thuật mà Hàn Tín đã sử dụng trong các trận chiến, như Hàn Tín điểm binh, Minh tu sạn đạo, Thập diện mai phục, ám độ Trần Thương (sau này đã được biên tập lại thành một trong 36 kế của nhà binh).
Về mặt quân sự, trong tranh chấp giữa 2 thế lực Hán và Sở, có lẽ là không ngoa khi nói gần như một mình Hàn Tín là người quyết định cán cân nghiêng về phía nào. Là người giỏi binh pháp, ưu việt về mặt quân sự, nhưng trên chiến trường thì Tín lại không phải là đối thủ của Lưu Bang.
Kế Tứ diện Sở ca và chiến thắng trước Tây Sở Bá Vương
Hán – Sở quyết chiến trận đánh cuối cùng vào năm 202 TCN tại Cai Hạ. Lúc này binh lực của quân Hán được ước chừng nằm trong khoảng từ 70 đến 80 vạn quân; trong khi đó, quân nước Sở của Hạng Vũ chỉ có khoảng 10 vạn. Hàn Tín đã chính diện nghênh đón quân Sở với 30 vạn quân.
Quân Hán cuối cùng cũng đánh bại được quân Sở sau khi trải qua mấy lần giao tranh nhưng cũng nhận nhiều thương vong, tổn thất nghiêm trọng. Trong thế trận giằng co của đôi bên, Hàn Tín đã hạ lệnh cho binh sĩ hát bài hát đặc trưng của nước Sở, nhằm khiến binh sĩ Sở mất ý chí chiến đấu.
Nghe được tiếng hát trong đêm, Hạng Vũ và binh sĩ tinh thần hoang mang, cảm thấy tứ bề bị cô lập, sợ hãi khi nghĩ quân Hán đã chiếm lĩnh hoàn toàn được Sở địa.
Mấy đêm liền, Hạng Vũ vừa ngồi uống rượu trong quân trướng, hồi tưởng những chuyện đã qua, có Ngu Cơ xinh đẹp ở bên, có bảo mã Ô Chuy, những trận chiến từng trải qua, ông hùng hồn bi ca cũng như cho ra đời kiệt tác “Cai Hạ ca” về người anh hùng mạt lộ để lại tới tận hậu thế sau này:
Sức dời núi, khí trùm trời,
Ô Truy chùn bước bởi thời không may!
Ngựa sao chùn bước thế này?
Ngu Cơ, biết tính sao đây hỡi nàng?
Sau khi nghe Hạng Vũ hát vài lần, Ngu Cơ cũng cất tiếng hát theo. Cả hai cùng chảy nước mắt, chẳng ai dám ngẩng lên nhìn, thậm chí những binh sĩ, thân vệ hai bên cũng rơi nước mắt.
Khi bài ca kết thúc, Ngu Cơ đã rút kiếm tự vẫn để Hạng Vũ có thể trốn thoát. Nhân lúc đêm khuya, ông đã cưỡi trên chiến mã Ô Truy và dẫn 800 kỵ binh để phá vòng vây, chạy về phía Nam. Giai thoại này đã tạo nên điển tích “Bá Vương Biệt Cơ” kể về mối tình của Tây Sở Bá vương và nàng Ngu Cơ.
Cũng trong trận chiến này, điển tích Tứ diện sở ca cũng ra đời mang nghĩa bốn bề thọ địch. Dù bị dồn vào đường cùng, Hạng Vũ vẫn dũng mãnh, một mình một ngựa giết chết hơn trăm quân Hán khi phá vòng vây bị đuổi giết. Khi đứng bên dòng sông Ô Giang, Hạng Vũ đã lựa chọn tự vẫn bởi ông cảm thấy bản thân không còn mặt mũi nào đối mặt với các phụ lão Giang Đông.
Chấm dứt trận chiến Cai Hạ cũng là chấm dứt hỗn chiến thời mạt Tần, mở ra thời Hán hưng với hơn 400 năm lịch sử huy hoàng ảnh hưởng đến cả Trung Hoa ngày nay.
Tài năng và nhân cách Hàn Tín như thế nào?
Tài năng quân sự của Hàn Tín
Mưu lược của Hàn Tín, có thể kể đến qua các trận chiến sau:
Bình Định Tam Tần
Vào tháng 8 năm 206 TCN, Hàn Tín Đế được phong làm tướng quân và bắt đầu dẹp yên nước Tấn, do các Tư Mã Hân (Tắc vương), Chương Hàm (Ung vương), và Đổng Ế (Địch vương) cai trị. Sơn Đông chặn đường Lưu Bang.
Ông giả vờ sai người sửa đường sai tốn nhiều thời gian và công sức để nước Tấn yên tâm rằng quân Hán còn xa cửa. Nhưng trên thực tế, Hàng Đỉnh đã dẫn quân theo đường Trần Thương qua huyện Cổ Đạo đánh bại Ung Vương Chương Hàm. Chương Hàm gặp quân Hán ở Trần Thương. Hàn Tín giả vờ bỏ chạy, rồi dùng hỏa công mai phục Trương Hàn. Sau khi bại trận, Vương thị chạy về, ngăn chiến với Hạo Chi, lại thua, bỏ chạy đến Phi Châu. Vua Hán đuổi xuống đất của vua Weng, tiến về phía đông Hàm Dương, chia quân bao vây Phế Châu, cử các tướng đi trấn áp Lũng Tây, Bắc Địa, Thượng Quận.
Diệt Ngụy
Vào tháng 6 năm 205 TCN, Ngụy Vương Báo đã lấy cớ xin nghỉ để về thăm cha bị bệnh. Về đến nước, Ngụy Vương liền cho cắt đường giao thông ở Hà Quan, phản lại Hán và giao hiếu với Sở.
Bên cạnh đó, Hán vương đã sai Lịch Tự Cơ thuyết phục Báo, nhưng Báo không nghe.
Vào tháng tám năm 205 TCN, Lưu Bang phong Hàn Tín làm tả thừa tướng nhằm đánh Ngụy. Ngụy Báo đã đem nhiều binh đến Bồ Bản chặn cửa sông Lâm Tấn. Hàn Tín đã dàn thêm nghi binh, đồng thời bày thuyền bè như muốn vượt qua sông Lâm Tấn. Nhưng trái lại, ông dùng phục binh đi đường đất Hạ Dương và lấy thùng gỗ để cho quân vượt qua sông để có thể đánh úp đất An Ấp.
Hàn Tín đánh chiếm đất Ngụy đồng thời bắt Báo cầm tù, bình định đất Ngụy và làm thành quận Hà Đông.
Hán Vương tiếp tục sai Trương Nhĩ cùng với Hàn Tín đem binh lính sang đông đi về hướng Bắc, đánh nước Triệu và nước Đại.
Lấy Triệu
Vào tháng 9, năm 205 TCN, Hàn Tín phá quân Đại, đồng thời cũng bắt được thừa tướng Hạ Duyệt. Người được Đại Vương Trần Dư ủy quyền để cai quản nước Đại. Lúc đó, chiến sự giữa Sở và Hàn đang rất gay go. Hán Vương cũng đã bị Sở Bá Vương tấn công mạnh mẽ. Hán Vương sau khi nghe tin, ông đã diệt liền 2 nước. Sai người thu binh lính đến Huỳnh Dương để chống Sở.
Hàn Tín cùng Trương Nhĩ đã mộ quân mới, được khoảng mấy vạn người, đi đến phía Đông để đánh Triệu. Lúc ấy, Trần Dư và Vua Triệu nghe tin quân Hán sắp đánh úp. Đã tụ tập 20 vạn quân ở Tỉnh Hình.
Tướng Triệu bày mưu cho Trần Dư củng cố và chặn đánh quân Hán, nhưng Trần Dư không chịu nghe.
Hán Tín sai người đến điều tra, thấy mưu kế của Lý Tả Xa chưa được sử dụng nên bèn dẫn quân xuống ngựa. Chúng tôi dừng lại và cắm trại trước cổng Tỉnh Hưng, cách đó ba mươi dặm. Nửa đêm, lệnh rời đi. Chọn hai nghìn kỵ binh để trang bị nhẹ, mỗi người sẽ cầm một lá cờ đỏ.
Hàng ngàn người đã được cử tới để chiến đấu chống lưng. Đó là điều tối kỵ trong quân đội, vì theo chiến thuật thì phải dựa núi mới thấy sông, dựa sông thì bị địch dồn đến đường cùng, thế là đến nơi. của cái chết. Vì vậy, quân Triệu ở phía xa đã bật cười khi nhìn thấy điều này.
Rạng sáng, Hàn Tín phất cờ đại tướng, đánh trống, kéo quân đến Tỉnh Hưng. Quân Triệu đã mở cổng tường thành và chiến đấu ầm ĩ trong một thời gian dài. Khi ấy, Hàn Tín và Trương Nhĩ giả vờ không cắm cờ, chạy sang kéo quân bên sông. Cánh quân bên sông chia nhau, vây bắt và chiến đấu ác liệt trở lại. Quân Triệu thực sự rời thành, tranh cờ trống của Hán, đuổi theo Hàn Tín và Trương Nhĩ. Sau khi Hàn Tín và Trương Nhĩ hội quân bên sông. Quân đội chiến đấu đến chết cũng không thể bị đánh bại. Hai nghìn kỵ binh do Điền đưa ra đợi đến khi Triệu Tuấn phá xong chướng ngại để đuổi theo cờ Hán rồi mới xông vào thành nhanh chóng. Cởi hết cờ của nhà Triệu, giương cao hai nghìn cờ đỏ của nhà Hán.
Nhân cách Hàn Tín
Giống như Lưu Bang Bằng, Hàn Tín cũng rất biết cách nhẫn nhịn. Định Trương Nam Xương căm thù và hành hạ Hàn Tính, ông phải chịu đựng. Phụ mẫu giặt lụa ngậm ngùi trách móc Hàn Tín, Hàn Tín chịu đựng. Sau đó, người dân ở huyện Hoài An cố tình làm nhục Hàn Tín. Hàn Tín đành chịu, thậm chí còn chui vào đũng quần xã hội đen. Và làm trò cười nhục nhã khắp phố phường. Nhục nhã như vậy phải chịu đựng, quả là không dễ dàng.
Hàn Tín và Hạng Vũ, ai giỏi hơn?
Tây Sở Hạng Vũ bá khí ngất trời , anh dũng thần võ, được mệnh danh là chiến thần nhưng cuối cùng lại phải đại bại dưới tay Hàn Tín. Nếu không có Hàn Tín, ngay đến cả Hán Trung có khi Lưu Bang cũng không thể chiếm được. Mà cho dù Lưu Bang có trong tay Hán Trung thì cũng khó lòng có thể đánh bại được Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ.
Nhà sử học nổi tiếng Dịch Trung Thiên cho rằng chỉ vì Hạng Vũ do dự thiếu quyết đoán, cho nên Hàn Tín đã chê bai Tây Sở Bá vương là người có lòng nhân của đàn bà. Nhưng chính ông lại không biết bản thân mình cũng là người như thế và Hàn Tín cũng không biết rằng phàm là đàn bà vị tất đều có lòng nhân. Tuy nhiên, người có lòng nhân của đàn bà như Hàn Tín sau cùng lại bị một người đàn bà bất nhân, là Lã Hậu, giết hại. Cuộc đời của Hoài Âm Hầu đúng với câu “Sinh tử nhất tri kỷ, tồn vong lưỡng phụ nhân”
Đồng thời, khi so sánh Hàn Tín và Hạng Vũ thì nhà sử học Dịch Trung Thiên cũng cho hay: “Hạng Vũ là kẻ không biết mình cũng không hề biết người nên đại bại. Hàn Tín là kẻ biết người nhưng lại không biết mình nên tuy có thành công, tạo nghiệp lớn nhưng cuối cùng cũng chuốc lấy thất bại vào người. Xét thấy Sở bá vương Hạng Vũ là người anh hùng triệt để, anh hùng bản sắc nên đã có cái chết oanh liệt trên dòng sông Ô Giang. Hàn Tín phải khó khăn trăm bề mới có thể trở thành người anh hùng, là anh hùng không triệt để nên ấm ức mà có cái chết tức tưởi.”
Cái chết tức tưởi bi thảm của đại công thần
Sử Ký của Tư Mã Thiên đã ghi lại vài dòng về cái chết của Hàn Tín: “Năm 196 TCN, Trần Hy mưu đồ làm phản, Lưu Bang thân hành làm tướng, đem quân đi đánh. Hàn Tín lập mưu tập hợp người nhà làm phản ở kinh đô nhằm nội ứng cho Trần Hy. Nhưng lại có người môn hạ đắc tội với Hàn Tín khi ấy bị ông bỏ tù và sắp bị giết, em của người này đã báo tin cho triều đình, tố cáo Tín đang lập mưu làm phản”.
Lã Hậu đã nhân cơ hội này âm thầm lên kế hoạch với Tiêu Hà đang là Tướng quốc đương triều, nhằm nhanh chóng trừ khử Hàn Tín trong lúc Lưu Bang đang dẫn quân rời kinh dẹp loạn.
Cả hai đã phao tin Hán Cao Tổ Lưu Bang đã giết được Trần Hy ngoài chiến trường, mời chư hầu vào cung ăn mừng. Hàn Tín không hề đề phòng Tiêu Hà mà đi vào cung, kết quả vì chủ quan mà ông đã bị các võ sĩ mai phục trói lại, dùng côn đánh rồi đem đi chém ở nhà treo chuông tại Trường Lạc Cung và vu cáo ông hãm hại Lã Hậu và Thái tử. Sau đó đem xương cốt, thịt cho chó ăn. Cả cuộc đời Hàn Tín đúng là thành bởi Tiêu Hà nhưng bại cũng tại Tiêu Hà.
Nhiều tài liệu sử học ghi lại, chiến thần Hàn Tín trước lúc bị hành hình không cam lòng mà thốt lên: “Ta hối hận vì không nghe mưu kế của Khoái Triệu, cho nên mới bị bọn đàn bà, con nít lừa dối. Há chẳng phải vì trời muốn thế hay sao?”.
Sau đó, Lã Hậu đã hạ lệnh tru di tam tộc của Hàn Tín cũng chỉ bởi vì câu nói đó. Cái chết trong oán thán, tức tưởi đã khép lại cuộc đời của đại tướng quân “uy chấn sa trường” thời ấy. Ngày hôm đó, máu nhuộm thành Trường An, mùa đông giá rét, tuyết lớn mênh mông, âm thanh gào khóc đi kèm với tiếng gió rít của gió bắc lạnh thấu xương phiêu đãng khắp thành Trường An. Tất cả người dân khắp thành Trường An đều than khóc, không ai là không cảm thấy bi thương.
Hàn Tín chết như thế nào luôn là câu hỏi dấy lên nhiều cuộc tranh luận trong giới sử học. Nhiều người đưa ra quan điểm sau khi đã lập “đại công át chủ” thì Hàn Tín đã trở nên tự kiêu, bộc lộ dã tâm trắng trợn, từng cưỡng ép Lưu Bang phong mình làm vương; đồng thời, ông cũng lập mưu làm phản. Hán Cao Tổ ghi nhận những chiến công của đại tướng quân Hàn Tín nên đã miễn chết và chỉ giáng chức ông nhưng Hàn Tín lại không hối cải, luôn muốn cướp ngôi vương của Lưu Bang cho nên Lã Hậu và Tiêu Hà đã ngầm nhận lệnh lập mưu giết Hàn Tín.
Nhưng cũng có ý kiến phản bác minh oan cho Hàn Tín: Khi Tín cầm trong tay binh lực hùng hậu tại sao không phản, lúc Lưu Bang gặp nạn Tín cũng không phản mà phải đợi đến khi Lưu Bang trở thành Hán Cao Tổ nắm trong tay mọi quyền lực rồi mới lập mưu tạo phản?
Vụ án oan khuất của Hàn Tín đã trở thành vết đen không thể xóa nhòa đối với thanh danh của cặp Đế hậu Lưu Bang – Lữ Trĩ. Sự việc Hàn Tín bị giết đột ngột và kết thúc nhanh chóng mà không hề qua khâu luận tội, xét xử như bất cứ vụ án nào từng xảy ra khiến người đời sau phải suy nghĩ.
Được hậu thế rửa hờn trong từng áng thơ văn
Cảm thông cho nỗi oan của Hàn Tín, thương xót cho vị binh tiên toàn tài trung thành nhưng bị đối xử bạc bẽo mà chết oan khuất thì đời sau, một nhà văn Trung Quốc đã sáng tác nên truyện thơ Trọng Tương vấn Hán. Bộ truyện thơ hư cấu này đã từng được chuyển thể sang tiếng Việt bằng thơ lục bát vào đầu thế kỷ 20.
Tiền căn báo hậu kiếp thời Hán Sở tranh hùng luân hồi cho đến cuối đời Đông Hán – Tam Quốc là những nội dung cơ bản mà Trọng Tương vấn Hán nhắn tới.
Theo đó, Hàn Tín đầu thai làm Tào Tháo vào kiếp sau, Hán Hiến Đế Lưu Hiệp chính là kiếp sau của Hán Cao Tổ Lưu Bang, còn Lã Hậu đã được luân hồi chuyển kiếp làm Phục Hậu. Kiếp trước Hàn Tín bị Lưu Bang phụ bạc, Lã Hậu lập mưu giết oan, kiếp sau Tào Tháo vẫn làm bầy tôi trung thành của nhà Hán dưới trướng Hiến Đế, nhưng lại ra sức dùng quyền lực chèn ép ức hiếp Hiến Đế và Phục Hậu – Lã Hậu đầu thai, vợ của Hiến Đế. Những hành động của Tào Tháo đã làm với nhà Hán chính là luật nhân quả.
Việt Nam cũng có nhiều bài thơ viết về lòng tiếc thương cho binh tiên Hàn Tín. Đại Thi Hào Nguyễn Du có hai bài thơ, nhà thơ Lê Quý Đôn cũng viết một bài, thậm chí đến nhà vua Trần Anh Tông cũng có nhắc về Hàn Tín.
********************
Đăng bởi: THPT Ngô Thì Nhậm
Chuyên mục: Tổng hợp