Ngôn ngữ Nam Bộ rất đặc sắc và phong phú, có nhiều từ ngữ đặc trưng tạo nên cái chất riêng của ngôn ngữ này, trong đó chớ bộ (chứ bộ) là một từ rất hay được sử dụng. Sau đây hãy cùng THPT Thành Phố Sóc Trăng tìm hiểu xem chứ bộ (chớ bộ) là gì? nhé!
Nghĩa của từ Chứ
Chớ bộ (hay chứ bộ) là một phương ngữ Nam Bộ, đã được ghi nhận trong Từ điển phương ngữ Nam Bộ của Huỳnh Công Tín như sau: Chớ bộ: chứ lại, chứ tưởng, từ dùng có ý khẳng định mạnh hơn chớ. Anh yên chí đi, anh làm xong thì tôi cũng làm xong chớ bộ. Chớ bộ anh không thấy tôi đương làm sao, còn hối nữa. Về chữ bộ trong chớ bộ, Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức đã giảng như sau: Bộ (danh từ): Dáng bên ngoài, điệu, cách đi đứng, làm việc.… Làm bộ, coi bộ, chớ bộ // (trạng từ): Lẽ nào, hình như, tiếng đầu câu để phân bua ý mình hoặc đoán chừng ý người: Bộ tôi ăn gian anh sao!…. Như vậy, bộ ban đầu có nghĩa là dáng, vẻ, sau mở rộng ra nghĩa có vẻ, hình như, lẽ nào. Chớ bộ hẳn là một cách nói bỏ lửng vế sau, chẳng hạn đẹp lắm chớ bộ là rút gọn của đẹp lắm chớ bộ xấu sao (đẹp lắm chớ chẳng lẽ xấu), cao lắm chớ bộ là rút gọn của cao lắm chớ bộ thấp hả?…
Phương ngữ Nam Bộ – nét đặc sắc của Đồng bằng sông Cửu Long
Về mặt địa lý, Nam Bộ được tính từ các tỉnh Bình Phước, Tây Ninh đến Cà Mau. Phương ngữ Nam Bộ có những nét khu biệt với phương ngữ Bắc Bộ hay Trung Bộ, mà những phương ngữ khác khó xâm nhập. Nếu ở miền Bắc tiếng Hà Nội khác tiếng Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình… thì ở Nam Bộ tiếng Sài Gòn và tiếng 13 tỉnh, thành khu vực ĐBSCL nói chung không khác nhau mấy. Nghĩa là chúng có sự thống nhất tương đối cao. Nếu phần lớn các tỉnh phía Bắc gọi cái bát, Nghệ An, Hà Tĩnh gọi là cái đọi, thì ở Nam Bộ gọi là cái chén. Nếu ở các tỉnh phía Bắc nơi thì gọi cha- mẹ, bố- mẹ, thầy- u, nơi gọi là cậu -mợ, bố- bầm, thầy- bu, ải- êm (người Thái)… thì ở Nam Bộ gọi là ba- má, tía- dú. Ngược lại, có một số từ ngữ ở miền Bắc, miền Trung gọi bằng một tên, như: thuyền hay đò thì ở Nam Bộ lại có nhiều tên gọi khác nhau để chỉ rõ đặc trưng, công dụng, kích cỡ của mỗi loại khi tham gia giao thông thủy, như: tàu, ghe. Riêng loại ghe có tới hơn chục tên gọi: ghe chài, ghe be, ghe bầu, ghe cui, ghe cửa, ghe giàn, ghe lồng, ghe lườn, ghe ngo, ghe tam bản, rồi xuồng ba lá, vỏ lãi, tắc ráng, trẹt…
Trong quá trình giao lưu giữa các vùng, miền, các dân tộc trong và ngoài nước thì một số phương ngữ Nam Bộ đã có sự vay mượn làm phong phú thêm vốn từ ngữ của cộng đồng cư dân ở xen lẫn nhau, như: nói sáng say, chiều xỉn, tối xà quần thì đều chỉ người say rượu ở những mức độ khác nhau (người Kinh gọi là say, người Hoa gọi là xỉn, người Khmer gọi là xà quần). Trong các tác phẩm văn học của Nam Bộ, ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ lịch sử, từ ngữ dùng cũng khác nhau.
Người Nam bộ thẳng thắn, bộc trực; không quanh co, rào đón trước sau nên lời ăn tiếng nói cũng vậy. Khi giao tiếp, họ dùng từ ngữ cụ thể, chính xác, trực tiếp, nghĩ sao nói vậy, ít khi nói vòng, nói tránh. Từ ngữ dùng để miêu tả giàu hình ảnh, dễ hiểu như: đầu cá dồ, mỏ cá hô, râu cá chốt, mặt như trái bần, nói như tép nhảy… Đặc biệt, người Nam bộ thường dùng những cụm từ gắn liền với sông nước như: nói vòng vo như rạch Cái Tắc, mần ăn kiểu nước nhảy (chỉ sự nhanh, bất ngờ, không bền vững), buông dầm cầm chèo (chỉ sự tháo vát, linh hoạt), ăn như xáng múc, làm như lục bình trôi (chỉ sự tham ăn, lười biếng), lội bộ (đi bộ), vụ này chìm xuồng luôn rồi (giấu kín hoặc cho qua việc gì đó)… Hầu hết từ ngữ giàu hình ảnh của người Nam bộ là những từ thuần Việt, hiếm khi dùng từ Hán – Việt, giúp người nghe dễ hình dung, đón nhận.
Nếu bạn nghe ai dùng các từ như: đi dìa, mình ên, bự tổ chảng, trớt quớt, ta nói, ngon bá cháy bù chét, dở ẹc, thiệt ngộ, khôn bà cố, giỏi một cái, xà quần… hay những từ có ngữ âm, ngữ khí như: chèng đéc ơi, mèng ơi, nghen/hen/héng, hôn/hông/hổng… thì đó đích thị là người Nam bộ, chính xác hơn là miền Tây Nam bộ. Một điểm dễ nhận diện nữa là người miền Tây không có thói quen uốn lưỡi khi phát âm những phụ âm rung như chữ r, do đó thường phát âm r thành g, tr thành ch.
Những đặc điểm trong câu hỏi – đáp; những cụm từ xưng hô bây – mầy, chị – chế, anh – hia; từ quầm trong lời ăn tiếng nói của cư dân Tây Nam bộ; sự dung hợp của người Việt tại Nam bộ qua các từ: xài, xà quần, xỉn… được các tác giả phân tích, giải thích chi tiết, đưa ra những dẫn chứng cụ thể, hợp lý. Ngoài ra, sách còn có bài viết chuyên sâu về tiếng Khmer Nam bộ – ngôn ngữ có sự ảnh hưởng khá nhiều đến ngôn từ, cách nói của người nơi đây.
Ngôn ngữ là thứ của cải vô cùng quý báu và lâu đời của dân tộc (Bác Hồ). Vì thế việc bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt là rất quan trọng và cần thiết. Tuy nhiên, trong quá trình giao thoa văn hóa giữa các vùng, các miền, các nước… một bộ phận ngôn ngữ cũng bị cải cách theo, hoặc bị biến dạng, biến thể theo chiều hướng có lợi, hoặc có hại. Nó sẽ làm rối thêm, làm mất đi bản sắc dân tộc của từng vùng, từng miền trên một đất nước từ lâu đã có sự thống nhất về chữ viết và ngôn ngữ.
Trong thời kì hội nhập quốc tế hiện nay, nhiều thứ có thể hòa tan, hòa hợp, biến màu, biến chất, thì ngôn ngữ liệu có thoát khỏi guồng quay đó? Song, chúng ta cũng không đáng lo ngại lắm về sự xâm thực của ngôn ngữ ngoại lai, nhất là thứ ngôn ngữ chát trên mạng của thế hệ 8x, 9x… Bởi dân tộc ta từ lâu đã có quá trình giữ gìn và phát triển vốn ngôn ngữ của toàn dân. Bằng chứng rõ nhất là chữ Hán của Trung Hoa một thời gian dài mấy thế kỷ được dùng làm văn tự, nhưng sau đó ông cha ta cũng chỉ mượn để sáng tạo ra chữ Nôm. Một số từ tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga… khi vào Việt Nam cũng bị biến đổi cho phù hợp với cách cảm, cách nghĩ của người Việt. Những người có công trong việc Việt hóa một số từ ngữ đó, phần lớn là tầng lớp trí thức có trình độ cao. Và chúng ta không thể không kể đến vai trò của các nhà văn, nhà thơ, những người đã dùng ngôn ngữ toàn dân, ngôn ngữ bác học để đưa vào tác phẩm văn chương, phản ánh cuộc sống muôn màu muôn vẻ của con người và xã hội. Riêng ở Nam Bộ, phương ngữ thể hiện khá rõ trong các tác phẩm văn học, trên các phương diện ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa và phong cách diễn đạt.