Chén Kiến Trản là gì?
Chén thiên mục (Kiến Trản) là một loại chén có lớp men oxit kim loại được tráng lên phần xương gốm tử sa. Sau đó chén trà thiên mục được nung ở nhiệt độ cao (trên 1000 độ C). Tuỳ thuộc vào loại oxit kim loại mà khi nung lên sẽ cho ra sắc men khác nhau.
Các loại men chén Kiến Trản
Chén thiên mục được phân loại theo vẻ bề ngoài (là do loại oxit kim loại đem nung tạo ra).
– Du Tích (giọt dầu). Là loại chén thiên mục lốm đốm trắng hay nâu như những giọt dầu loang trên mặt nước. Đôi khi lại là những vệt dài như vết dầu hay vết sơn chảy. Loại men này là kết hợp của hàm lượng rất cao oxit nhôm, silica, kali và magiê.
– Thố Hào (lông thỏ). Loại chén thiên mục này có những vệt trắng rất mịn tựa như lông của con thỏ. Thực ra Thố Hào là một dạng biến thể của Du Trích. Với việc là sẽ dùng nhiệt độ cao hơn nhiều. Để phân tử kim loại không chỉ nổi lên bề mặt men. Mà còn tan chảy kéo thành một đường dài. Hàng nghìn giọt kim loại siêu nhỏ trượt thành một đường dài chồng lên nhau. Tựa như những cọng lông nhỏ xếp chồng vào nhau như lông thỏ.
– Mộc Diếp hay Konoha là dạng men Thiên Mục có hình một chiếc lá nguyên vẹn trong lòng chén hay dĩa. Không giống như những loại men Thiên Mục khác khi các đường nét hay hình thù là kết quả của việc nung các thành phần kim loại trong men, hình chiếc lá của Mộc Diếp có được đơn giản là khi tráng men người làm gốm sẽ cho thẳng một chiếc là vào.
– Trà Diếp Mạt (bột trà) hay Chayemo là dạng men Thiên Mục có những chấm li ti nhỏ như trà cám. Đây là kiểu men ra đời trước cả khi men Thiên Mục thịnh hành vào thời nhà Tống. Trà Diếp Mạt ra đời vào thời nhà Đường (618-907) và được tạo ra bởi các lò gốm ở Hiệp Tây và Hà Nam. Thế nhưng kiểu men này bị thất truyền trong một thời gian dài gần 10 thế kỷ đến khi được hồi phục dưới thời vua Ung Chính (cha của Càn Long) của nhà Thanh (1644-1912). Khác với Du Trích, Trà Diếp Mạt có hàm lượng nhôm thấp nhưng lại chứa nhiều oxit magiê (3-5%) nên sau khi nung thì loại men này có những tinh thể li ti màu vàng xanh nổi trên bề mặt như có bột trà xanh được rắc lên. Thời gian làm nguội của loại men này cũng dài hơn bình thường để các tinh thể này có đủ thời gian để hình thành.
– Hoả Biến là loại men Thiên Mục có màu nâu đỏ như một ngọn lửa. Đây là kiểu men Thiên Mục rất thịnh hành và hiện này được sản xuất nhiều ở Trung Quốc, Nhật Bản và cả Đài Loan. Màu nâu đỏ là kết quả của hàm lượng oxit sắt rất cao (12-20%) có trong lớp men làm nên Hoả Biến. Màu sắc đậm hay nhạt thì lại tuỳ thuộc vào độ dày của lớp men, men được tráng mỏng thì hoả biến có màu nâu đỏ nhạt còn men được tráng dày thì Hoả Biến sẽ có màu sẫm hơn. Màu sắc còn phụ thuộc vào nhiệt độ nung và kỹ thuật của nghệ nhân làm gốm nữa.
Tác dụng của chén Kiến Trản
“Chén thiên mục có tác dụng làm cho nước trà mềm hơn, dịu hơn. Chén tenmoku sẽ khử độ cứng của nước và làm cho nước trà thêm phần ngọt ngào.”
Chén uống trà đóng một vai trò không thể thiếu trong trải nghiệm khi uống trà của tôi. Trên thực tế, tính thẩm mỹ luôn đi kèm văn hóa uống trà, từ đầu đến cuối, từ việc lấy trà cho đến khi nhâm nhi ngụm trà cuối cùng mà ta uống hay thậm chí là việc lau chén trà, mọi khoảnh khắc đều tràn ngập một vẻ đẹp riêng.
Những chén trà Trung Quốc mà tôi chọn vào buổi sáng thường tiết lộ nhiều điều về tâm trạng và mục tiêu trong ngày của tôi. Tôi với lấy một cái chén đơn giản hay tôi chọn một chiếc chén Khải tinh tế cùng với một chén trà Cảnh Đức đầy màu sắc?
Đúng là chén uống trà càng đẹp, ta càng bị thôi thúc suy ngẫm về trải nghiệm cái vẻ đẹp và sự uy nghi của sự tĩnh lặng. Chén trà chất lượng thậm chí có thể tăng thêm phần thú vị trong câu chuyện khi ta pha trà mời khách. Không ngoa khi nói rằng chén trà càng đẹp thì trải nghiệm uống trà càng cao.
Lịch sử của chén Kiến Trản
Kiến Trản (tiếng Trung giản thể: 建盏; còn được đánh vần: Jiàn Zhǎn, JianZhan; dịch sát nghĩa: Kiến Triển), chén trà Kiến Trản được cho là đại diện cho đỉnh cao của nghề thủ công làm chén trà của Trung Quốc. Nó xuất phát từ sự yêu thích và mong muốn trân trọng việc pha trà, đó là kết quả của việc tìm kiếm một chén trà hoàn hảo.
Trong thời nhà Tống, từ khoảng năm 960 đến năm 1279, các lò gốm thuộc trấn Thủy Cát, Kiến Dương, Phúc Kiến bắt đầu xuất hiện loại chén Kiến Trản này. Vào thời đó, trà xanh được ép thành bánh và sau đó thường được nghiền thành bột mịn trước khi được đánh thành một loại đồ uống có bọt, kem, giống như cách chúng ta uống matcha ngày nay.
Vì các loại trà ngon nhất thường có bọt trắng, nên một cuộc tìm kiếm đã bắt đầu để chế tạo chén trà có thể làm nổi bật chất lượng của trà.
Chất men Thiên Mục có nguồn gốc từ Kiến Châu (nay là Kiến Âu – một huyện của Phúc Kiến), do ban đầu chỉ được dùng để làm chén uống trà nên chất men này được đặt là Kiến Trản – ‘trản’ là cái chén nhỏ còn ‘kiến’ là lấy từ ‘kiến’ phổ biến ở các địa danh nơi đây.
Không rõ thời gian chính xác men Thiên Mục ra đời vào khi nào nhưng có một điều chắc chắn là loại men này cực kỳ được ưa chuộng vào thời nhà Tống (960-1279). Trong khi đó theo những người chuyên nghiên cứu về trà đạo Nhật Bản thì từ Thiên Mục (Tenmoku) thì từ Thiên Mục có được ghi nhận trong tài liệu có từ năm 1333.
Nhưng theo nhận định khá tin cậy của một số nhà sử học thì đồ gốm làm từ chất men này có mặt ở Nhật Bảo vào giai đoạn Kamakura (1192-1333). Nhận định này dựa trên cơ sở là vào thời kỳ Kamakura thì có môt lượng lớn nhà sư Nhật Bản sang Trung Quốc để học thêm về Phật Pháp.
Giai đoạn này trùng với thời kỳ Nam Tống (1127-1279) ở Trung Quốc, đây là khoảng thời gian mà nhiều nhà sư Nhật Bản ghé sang nhiều ngồi đền chùa ở Trung Quốc để học hỏi thêm về Phật Pháp. Có một nhóm nhà sư người Nhật ghé đền Thiên Mục nên họ không chỉ học về Phật Pháp mà còn học về cách thưởng trà của những nhà sư nơi đây.
Khi về nước thì các nhà sư Nhật Bản mang theo những chén trà Kiến Trản – và để tri ân thì họ đặt tên những chén trà này là Thiên Mục theo tên ngôi đền mà họ đã ở và tu hành. Có lẽ họ cũng không ngờ rằng đồ gốm tráng men Thiên Mục mà họ mang về làm kỷ niệm lại trở thành một trào lưu mới của giới thượng lưu Nhật Bản vào giai đoạn này.
Trung Quốc vốn nổi tiếng về nhiều thứ và nhiều thế kỷ trước thì gốm của Trung Quốc luôn được ưa chuộng khắp Á Âu qua Con đường tơ lựa và nhiều kênh trao đổi hàng hoá khác. Gốm Trung Quốc được ưa chuộng một phần vì tinh xảo và chất lượng cao, mà còn vì đắt đỏ nên giới thượng lưu các nước xem gốm Trung Quốc là một minh chứng không thể thiếu cho sự giàu có.
Thiên Mục có nhiều loại như Hoả Biến (biến đổi bởi lửa), Thố Hào (lông thỏ), hay Du Trích (giọt dầu) đều là những cái tên rất kiêu kì nên khi các nhà sư Nhật Bản mang những chén trà Thiên Mục về nước thì giới quan lại và thương gia Nhật Bản gần như “phát cuồng” với những chén trà này. Chuyện kể rằng có một số quan chức còn sẵn sàng xây nguyên một tường thành hay hào nước miễn phí cho người quen chỉ để đổi lấy một chén trà Thiên Mục.
Chất men Thiên Mục rất được ưa chuộng vào thời nhà Tống (960-1279) nên hàng loạt lò gốm mọc lên với nhiều phong cách tráng men khác nhau để tạo nên những chiếc chén Thiên Mục với hình thù và màu sắc riêng.
Kiến Châu là nơi sinh ra chén Thiên Mục nên mặc nhiên là lò nổi tiếng và được ưa chuộng nhất, nhu cầu tăng cao nên nhiều lò gốm cũng đua nhau làm chén Thiên Mục. Vua Tống Huy Tông (1082-1135) là một người rất thích thưởng trà và cũng rất thích đấu trà với cận thần.
Ông trị vì vào thời gian chén Thiên Mục được ưa chuộng, vốn yêu trà nên không có gì ngạc nhiên khi chính bản thân Huy Tông cũng là người sở hữu rất nhiều loại chén này, nhất là chén của lò Kiến Châu. Viết trong cuốn Đại Quan Trà Luận của mình, Huy Tông cho rằng chén trà làm từ chất men tối (Thiên Mục) được xem là cực phẩm, nhất là khi dùng chén Thố Hào (một kiểu men Thiên Mục) thì mọi tinh tuý của trà đều được thể hiện ra hết.
Thái Tương (1012-1067) – một thư pháp gia rất nổi tiếng vào thời nhà Tống – viết trong cuốn Trà Lục rằng “Màu nước trà nhìn đẹp nhất là trong chén trà có chất men tối. Chén trà từ lò Kiến Châu được xem là hảo hạng với chất men tím sẫm được tô điểm bởi những vệt rất mỏng tựa như lông thỏ. Thân chén dày giúp nước trà giữ nhiệt được lâu. Chén của những lò khác không sánh bằng vì màu sắc nhợt nhạt còn thân chén thì quá mỏng. Người uống trà lâu năm chẳng bao giờ dùng những chiếc chén mỏng như vậy”.
Thi sĩ nổi tiếng cùng thời Hoàng Thính Kiên (1045-1105) còn ví chén Thiên Mục như “kim lâu chá cô ban” (mảng lông vàng rực của chim trĩ) hay “thố cát kim ti bảo oản” (chén quý như được ‘đan’ từ lông thỏ vàng óng mượt). Tô Đông Ba (1037-1101) – một vị quan nổi tiếng thời nhà Tống – viết trong bài Tống Nam Bình Khiêm Sư: ” Một đạo nhân đến ghé thăm ta từ núi Nam Bình và chỉ điểm cho ta cách thưởng trà. Ta rất ngạc nhiên khi ông ta dùng chén Thố Hào. Trà trong chén có hương vị tựa như loại nhất tửu (rượu ngon) nấu vào ngày xuân”. Nguyên cả một bài thơ Tô Đông Ba dành để miêu tả vẻ đẹp của loại chén Thiên Mục này.
Tất nhiên là vào thời gian này không ai gọi loại chén này theo cái tên phổ biến bởi người Nhật là Thiên Mục cả, thường thì người dùng chén sẽ gọi tên theo loại chén là Thố Hào hay Hoả Biến, hay gọi tên chung của loại chén này là Kiến Trản. Vào thời nhà Tống thì đạo Khổng Tử đang ran toả rộng rãi nên những chiếc chén Thiên Mục chỉ có một màu giản dị lại được xem là trân quý (vì đạo Khổng Tử đề cao cách sống giản dị).
Chén Thiên Mục vào thời Tống được làm ra chủ yếu ở Kiến Châu (thuộc Phúc Kiến ngày nay) và một phần khác đến từ Kí Châu (thuộc Giang Tây ngày nay). Chén Thiên Mục được phân loại theo vẻ bề ngoài, bao gồm: Hoả Biến (biến đổi bởi lửa), Thố Hào (lông thỏ), Du Trích (giọt dầu), Đại Bì và Đại Mạo (vỏ rùa biển), Mộc Diếp (lá cây), Giải Nhãn (mắt cua)…
Người Nhật Bản không chỉ mê chén Thiên Mục, sau này họ còn tìm tòi học hỏi để sau này tự họ làm ra chén Thiên Mục của riêng mình. Do đó cái tên gốc Kiến Trản của chất men này chẳng mấy ai biết đến, thay vào đó là Tenmoku, là Thiên Mục.
Chén trà Kiến Trản ngày nay
Ở Thủy Cát có những khu rừng thông tươi tốt, cung cấp lượng gỗ dồi dào được chứng minh là hoàn hảo để đốt lò nung ở nhiệt độ cao tới 1300°C. Tro trộn với đá vôi thường được sử dụng để phủ lên một số loại đất sét địa phương, tình cờ là loại đất sét này lại rất giàu sắt một cách bất thường.
Trong quá trình nung, một điều gì đó bất thường đã xảy ra. Khi lớp men nóng lên và nguội đi, những hoa văn kỳ lạ và đầy màu sắc bắt đầu xuất hiện trên bề mặt. May mắn thay, những người thợ thủ công đã có thể phân tích nguyên nhân khiến điều này xảy ra.
Theo các nhà khoa học “các điều kiện tổng hợp hoàn hảo cho Sắt(III) oxit (Fe₂O₃) đã được những người thợ gốm Trung Quốc tìm ra cách đây hơn 1000 năm.” Chính Sắt(III) oxit này có vai trò rất quan trọng trong việc tạo màu cho các loại men và giúp làm giảm rạn men và cũng đã tạo ra các hoa văn trên chén Kiến Trản.
Hình thức của chén trà Kiến Trản, thường tạo ra tiêu chuẩn để đánh giá các chén gốm khác. Trọng lượng nặng của đất sét cho phép nó được chế tác thành một hình dạng thể hiện sự sang trọng, với một vành rộng thuôn dần xuống phần chân hẹp.
Đây không phải là một điều dễ dàng để thực hiện, nếu trọng lượng được cân bằng không đúng cách, chén sẽ dễ bị nghiêng.
Khi uống trà bạn sẽ biết mình nên uống như thế nào, đặt thành chén lên môi dưới sẽ cho phép trà chảy vào miệng một cách hoàn hảo mà không cần dùng nhiều sức. Trong khi trọng lượng của đất sét trong tay một người sẽ tạo cảm giác chắc chắn và mạnh mẽ, mà không tỏ ra khó sử dụng.
Tương tự như vậy, thành chén được chế tạo với độ dày vừa phải để giúp giữ nhiệt cho trà, nhưng cũng không được quá dày vì như vậy sẽ tăng trọng lượng gây khó chịu khi cầm.
********************
Đăng bởi: Trường THPT Ngô Thì Nhậm
Chuyên mục: Tổng hợp