Thơ mới là gì?
Thuật ngữ thơ mới xuất hiện trong chương trình Ngữ văn lớp 8. Thơ mới là phong trào thơ xuất hiện vào những năm 20 của thế kỷ XX. Những nhà thơ theo phong trào này thường có xu hướng “đoạn tuyệt” với thể loại thơ cũ gò bó cả về nội dung và hình thức. Đây được ví là cuộc cách mạng “giải phóng” thơ ca khỏi những ràng buộc lỗi thời.
Thơ mới là cách gọi trào lưu sáng tác thơ phi cổ điển, chịu ảnh hưởng từ các phép tắc tu từ, thanh vận của thơ hiện đại phương Tây. Thơ mới trở thành một hiện tượng trong khu vực các nước Châu Á. Thơ mới ra đời, phát triển dựa theo yêu cầu cấp thiết của sự hiện đại hóa thi ca truyền thống.
Hiểu một cách đơn giản nhất, phong trào thơ mới là một cuộc cách mạng giải phóng thơ ca khỏi các luật lệ, quy định cũ đã lỗi thời, gắn liền với việc giải phóng cái tôi cá nhân, đặt cái tôi cá nhân và cái chủ quan vào trung tâm của thơ ca, cho phép bộc lộ mọi cung bậc, cảm xúc, tình cảm cá nhân của mình.
Nguồn gốc của phong trào thơ mới
Ở Việt Nam thời trước vào thời Pháp thuộc, giới trí thức trẻ nhanh chóng nhận ra việc vần luật, niêm luật của cổ thi đã làm gò bó trong việc thể hiện tiếng thơ của con người. Năm 1917, trên báo Nam Phong, nhà thơ Phạm Quỳnh, nổi tiếng là người bảo thủ, cũng phải công nhận sự gò bó của các luật thơ cũ. Ông nói: “Người ta nói tiếng thơ chính là tiếng kêu của con tim. Người Tàu định luật nghiêm cho người làm thơ thực là muốn sửa lại tiếng kêu ấy cho nó hay hơn nhưng cũng từ đó mà làm mất đi cái giọng tự nhiên vậy”.
Trong khoảng năm 1924 đến năm 1925, cuốn tiểu thuyết của Hoàng Ngọc Phách kể về mối tình Đạm Thủy và Tố Tâm đã gây sóng gió trong giới học sinh và thanh niên thành thị, dù tình yêu ấy chưa vượt qua được rào cản của gia đình phong kiến. Tiếp theo đó, năm 1928, Nguyễn Văn Vĩnh cũng phá vỡ vần điệu niêm luật, số câu, số chữ của lối thơ cũ khi dịch bài La cigale et la fourmi (Con ve & con kiến) của La Fontaine sang tiếng Việt.
Năm 1929, Trịnh Đình Rư viết trên báo Phụ nữ tân văn: “Cái nghề thơ Đường luật khó đến như thế, khó cho kẻ muốn làm thơ, mỗi khi có nhiều tư tưởng mới lạ muốn phát ra lời, song vì khó tìm chữ đối, khó chọn vần để gieo, nên ý tưởng dầu hay cũng đành bỏ bớt. Cái phạm vi của thơ Đường luật thật hẹp hòi, cái quy củ của thơ Đường luật thật tẩn mẩn. Ta nếu còn ưa chuộng mà theo lối thơ này mãi, thì nghề thơ văn của chúng ta chắc không có bao giờ mong phát đạt được”.
Ngày 10 tháng 3 năm 1932, bài thơ Tình già của tác giả Phan Khôi ra mắt bạn đọc trên báo Phụ nữ tân văn số 122 với bài giới thiệu mang tên “Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ” đã tạo được tiếng vang mạnh mẽ, được xem là bài thơ mở đầu cho phong trào gọi là Thơ mới.
Ngay sau đó, cuộc tranh luận giữa thơ mới và lối thơ cũ diễn ra vô cùng gay gắt. Mãi đến năm 1941, cuộc tranh chấp đó mới chấm dứt do sự thắng thế của lối thơ mới, khép lại mấy trăm năm thống lĩnh của loại thơ Đường. Một thời kỳ vàng son mới của văn học Việt Nam đã diễn ra với tên gọi như chúng ta đã biết là phong trào Thơ mới. Các tác giả thơ mới hay nhất có thể nhắc đến là Thế Lữ, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử… với những tác phẩm có giá trị đến thời đại bây giờ.
Các giai đoạn của phong trào thơ mới
Phong trào thơ mới được chia thành các giai đoạn sau:
Giai đoạn từ 1932 – 1935
Đây là giai đoạn đánh dấu cho sự chớm nở của phong trào thơ mới với sự đấu tranh gay gắt giữa 2 trường phái thơ. Sau bài khởi xướng của Phan Khôi, một loạt các nhà thơ như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông, Vũ Đình Liên liên tiếp công kích thơ Đường luật, hô hào việc bỏ niêm, luật, bỏ điển tích, sáo ngữ,…
Ở giai đoạn đầu, Thế Lữ là nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào thơ mới với tập “Mấy vần thơ (1935)”. Bên cạnh đó, còn có sự góp mặt của nhà thơ Lưu Trọng Lư, Nguyễn Nhược Pháp, Vũ Đình Liên.
Giai đoạn 1936 – 1939
Là giai đoạn thơ mới chiếm ưu thế so với thơ cũ trên nhiều phương diện nhất là thể loại. Ở giai đoạn này xuất hiện nhiều tên tuổi lớn như Xuân Diệu (Tập Thơ thơ 1938, Hàn Mạc Tử (Gái quê 1936, Đau thương – 1937), Bích Khuê (Tinh huyết – 1939), Chế Lan Viên (Điêu tàn – 1937),…Đặc biệt với sự góp mặt của Xuân Diệu – nhà thơ “mới nhất trong các nhà thờ mới”, vừa mới vào làng thơ đã được người ta dành cho chỗ ngồi yên ổn.
Phong trào thơ mới phát triển mạnh mẽ với hàng loạt các cây bút có tên tuổi, thể hiện được tài năng nghệ thuật đặc sắc cũng như sự lên ngôi của cái tôi cá nhân ở giai đoạn này. Các nhà thơ được nói lên cảm xúc của mình một cách trọn vẹn.
Giai đoạn 1940 – 1945
Trong giai đoạn này, thơ mới xuất hiện nhiều khuynh hướng khác nhau nhưng về cơ bản là vẫn giữ được nét đặc trưng của thơ mới trong giai đoạn đầu. Các nhà thơ thời kỳ này xuất hiện một số bộ phận cổ súy cho việc ăn chơi, hưởng thụ trong thời thế loạn lạc. Giai cấp tiểu tư sản thành thị và một số của bộ phận trí thức đã không giữ được tư tưởng độc lập đã chạy theo giai cấp tư sản. Với thân phận của người dân mất nước và bị chế độ xã hội thực dân o ép, họ đã đứng lên sẵn sàng đón nhận những luồng gió khác nhau thổi đến.
Đặc điểm của phong trào thơ mới
Cuộc cách mạng thơ mới được thể hiện ở một số đặc điểm sau:
Về thể loại: so với thơ ca trung đại, thơ mới nhìn chung tự do hơn, số câu trong bài không bị hạn chế, chịu ảnh hưởng của thơ ca phương Tây, bài thơ được chia thành nhiều khổ, không bị hạn chế số khổ. Cách thức hiệp vần của thơ mới cũng khá phong phú.
Thơ mới thể hiện một cuộc cách mạng trong tư duy thơ: đặt cái tôi cá nhân ở trung tâm. Trong thơ mới có sự giao hoà giữa thế giới nội tâm của chủ thể trữ tình với ngoại cảnh. Điều này được thể hiện ở hiện tượng nhân hoá trong thơ mới, làm cho ngoại cảnh cũng có cảm xúc như con người.
Thơ mới ghi lại cảm xúc chân thực của cá nhân chủ thể trước cách mạng. Cảm xúc ám ảnh trong thơ mới là cảm giác cô đơn, lạc lõng của con người, cô đơn trong cả tình yêu, cô đơn thăm thẳm trong tâm hồn.
Thơ mới thể hiện tình cảnh đối lập giữa tâm hồn và thế giới ngoại cảnh. Chính vì lí do đó nên phong trào thơ mới hình thành 1 khát vọng, đó là khát vọng giải thoát và có mong muốn thoát ly thức tại.
Ngoài ra trong thơ mới còn thể hiện một tình yêu tha thiết với cuộc sống, được thể hiện dưới hình thức: khao khát với tình yêu, hạnh phúc và khát vọng lên đường.
Những tác phẩm thơ mới đầu tiên
Các tác phẩm ra đời đầu tiên được nhóm “Tự lực văn đoàn” chê là “đọc lên nó lủng củng, trục trặc, lại có vẻ ngơ ngẩn” và giáo sư Hoàng Như Mai cho rằng “bây giờ không ai kể nó ra nữa vì nó bội bạc và vì nó dở”
- Một đoạn trong bài “Tình già” của Phan Khôi viết:
…Ôi đôi ta tình thương nhau thì vẫn nặng, mà lấy nhau hẳn đà không đặng.
Để đến nỗi tình trước phụ sau, chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau…
- Một đoạn trong bài “Trên đường đời” của Lưu Trọng Lư viết:
Lần bước tiếng gieo thầm, bóng ai kia lủi thủi.
Lẳng lặng với sương đeo im lìm cùng gió thổi
Không tiếng không tăm không thưa không hỏi..
- Một đoạn trong bài “Hai cô thiếu nữ” của Nguyễn Thị Manh Manh:
Hai cô thiếu nữ đi ra đồng
(Một cô ở chợ, một cô ở đồng)
Hai cô thiếu nữ đi ra đồng
Một mảnh lụa hồng, một vóc vải đen
Hai cô rủ nhau đi xuống đầm
(Cô đi chân không, cô đi dép đầm)
Hai cô rủ nhau đi xuống đầm
Bóng lụa hồng tách bóng vải thâm…
Các giả, tác phẩm tiêu biểu của phong trào thơ mới
- Thế Lữ: Cây đàn muôn điệu, Nhớ rừng…
- Xuân Diệu: Vội vàng, Lời kỹ nữ, Nguyệt cầm,…
- Huy Cận: Ngậm ngùi, Tràng giang…
- Lưu Trọng Lư: Tiếng thu,…
- Hàn Mặc Tử: Đây thôn Vĩ Dạ, Mùa xuân chín…
- Nam Trân: Đẹp và Thơ – Cô gái Kim Luông…
- Chế Lan Viên: Thu…
- Phạm Huy Thông: Tiếng địch sông Ô…
- Vũ Đình Liên: Ông đồ…
- Nguyễn Nhược Pháp: Chùa Hương…
- Tế Hanh: Quê hương…
- Nguyễn Bính: Mưa xuân…
- Đoàn Phú Tứ: Màu thời gian…
- Thâm Tâm: Tống biệt hành…
- Vũ Hoàng Chương: Say đi em…
- T.Kh.: Hai sắc hoa Tigôn…
Mặc dù phong trào thơ mới chỉ xuất hiện trong thời gian ngắn nhưng ánh sáng của nó lại vô cùng rực rỡ. Sự xuất hiện của thơ mới đã tạo tiền đề cho nền văn học cách mạng sau này phát triển, thời kỳ mà cái tôi cá nhân của tác giả được bộc lộ trọn vẹn, sự bùng nổ của các biện pháp nghệ thuật mới nhưng vẫn giữ được cái đẹp của tiếng Việt.
********************
Đăng bởi: THPT Ngô Thì Nhậm
Chuyên mục: Tổng hợp