Đáp án đúng: B. Chỉ có trong xã hội tư bản
Giai cấp là gì?
Học thuyết Mác – Lênin về giai cấp là bộ phận hữu cơ của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Học thuyết đó chứng minh giai cấp là phạm trù kinh tế – xã hội có tính chất lịch sử. Giai cấp chỉ xuất hiện và tồn tại trong những điều kiện lịch sử nhất định của sự phát triển sản xuất.
Trong những điều kiện đó, mỗi giai đoạn phát triển của xã hội, với phương thức sản xuất tương ứng, có một hệ thống giai cấp nhất định bao gồm giai cấp thống trị , giai cấp bị trị cơ bản và giai cấp, tầng lớp trung gian. Sự tồn tại của các giai cấp sẽ không còn là tất yếu khi lực lượng sản xuất phát triển cao đến mức có khả năng thoả mãn mọi nhu cầu của xã hội và các cá nhân , khi sự “phân công” bộ phận thống trị , bộ phận bị trị trở lên không cần thiết.
Các Mác đi nghiên cứu về giai cấp từ việc phân tích kết cấu phương thức sản xuất đã có cách tiếp cận khoa học: lấy lý luận về hình thái kinh tế – xã hội làm cơ sở nghiên cứu xã hội. Mác đã đi tìm cái gốc của cơ cấu xã hội, cơ cấu giai cấp đó là kinh tế. C.Mác không đưa ra định nghĩa hoàn chỉnh về giai cấp, nhưng trong thư gửi Vâyđơmaye đã thể hiện tư tưởng về giai cấp:
1. Sự phát triển của các giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn lịch sử nhất định của sự phát triển sản xuất.
2. Đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản.
3. Bản thân sự chuyển dịch này chỉ là bước quá độ tiến tới xoá bỏ mọi giai cấp và tiến lên xây dựng xã hội không có giai cấp.
Đồng thời Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, Lênin định nghĩa: “Người ta gọi là giai cấp, những địa tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ ( thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận ) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng.
Đặc trưng của giai cấp là gì?
– 4 đặc trưng cơ bản của giai cấp:
+ Là những tập đoàn người to lớn khác nhau về nắm giữ TLSX. Đây là đặc trưng quan trọng nhất.
+ Khác nhau về cách thức quản lí và phân công lao động.
+ Khác nhau về thu nhập của cải xã hội.
+ Khác nhau về địa vị xã hội. Điều này dẫn đến việc tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động tập đoàn khác.
Nguồn gốc hình thành giai cấp
C.Mác là người đầu tiên đưa ra quan niệm cho rằng “ Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất.” Cơ sở tồn tại của giai cấp phải tìm trong sản xuất kinh tế chứ không phải tìm trong hình thái chính trị hay tư tưởng con người.
C.Mác và Ăngghen chứng minh rằng nguyên nhân căn bản, sâu sa của sự phân chia xã hội thành giai cấp, sự thay thế hệ thống giai cấp này bằng hệ thống khác, nói chung sự tồn tại của giai cấp là lực lượng sản xuất phát triển trong những giai đoạn phát triển nhất định.
Giai cấp xuất hiện khi lao động xã hội đã có thể tạo ra sản phẩm thặng dư tương đối, khiến cho sức lao động đã có một giá trị mà người ta có thể lợi dụng như đối tượng khai thác để chiếm đoạt sản phẩm thặng dư do lao động tạo ra. Khả năng này chưa xuất hiện thì không thể hình thành chế độ người bóc lột người. Đầu tiên, trong xã hội nguyên thuỷ, cuộc sống phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên để sống sót họ phải nương tựa vào nhau theo bầy đàn. Trong điều kiện đó giai cấp chưa xuất hiện.
Qua quá trình phát triển, các công cụ lao động nhờ đó tăng lên đáng kể, phân công lao động xã hội to đó được hình thành, xuất hiện của cải dư thừa, những người có quyền trong bộ lạc thị tộc lạm dụng quyền của mình để chiếm thành của riêng, chế độ tư hữu ra đời đánh dấu sự ra đời của giai cấp nô lệ ra đời: do đó thừa của cải, tù binh bắt được sử dụng làm người phục vụ cho những người giàu và có địa vị trong xã hội, họ được gọi là nô lệ, chế độ có giai cấp chính thức được hình thành từ đó.
Như vậy, sự xuất hiện tư hữu là nguyên nhân quyết định trực tiếp đến sự ra đời của giai cấp, cái mới ra đời phủ định cái cũ lạc hậu, trong lịch sử đã có chế độ phong kiến thay thế chế độ nô lệ, chế độ tư bản chủ nghĩa thay thế chế độ phong kiến. Chủ nghĩa tư bản phát triển cao lại tạo tiền đề cho sự thủ tiêu chế độ tư hữu – cơ sở kinh tế của sự đối kháng giai cấp trở thành xu thế khách quan trong sự phát triển xã hội. Đó là lô-gic khách quan của tiến trình phát triển lịch sử.
Trong xã hội có giai cấp triết học ra đời và phát triển có mang tính giai cấp không?
Xã hội tồn tại và phát triển được là nhờ vào sự tồn tại của con người và quan hệ giữa con người với nhau. Chính những hình thức quan hệ giữa người với người đã tạo ra hình thức cộng đồng người khác nhau. Sự biến đổi từ hình thức thị tộc, bộ lạc, bộ tộc và dân tộc đã phản ánh sự phát triển của xã hội. Vậy Trong xã hội có giai cấp triết học ra đời và phát triển có mang tính giai cấp không?
Câu trả lời là có. Bởi Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị tiến hành chiếm đoạt lao động của các giai cấp và tầng lớp bị trị, chiếm đoạt của cải xã hội vào tay giai cấp mình. Ngược lại, các giai cấp và tầng lớp bị trị không những bị chiếm đoạt lao động mà còn bị áp bức về chính trị xã hội và tinh thần. Sự bất bình đẳng giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị phát triển cao. Sự bất bình đẳng đó tất yếu dẫn đến đấu tranh giai cấp. V.I Lênin đã định nghĩa đấu tranh giai cấp: “là cuộc đấu tranh của một bộ phận nhân dân này chống lại một bộ phận nhân dân khác, cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền bị áp bức và lao động chống lại bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”.
Thực chất của đấu tranh giai cấp: là cuộc đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn về mặt lợi ích giữa quần chúng bị áp bức, vô sản làm thuê chống lại giai cấp thống trị, bóc lột để giải phóng lao động, làm cho sản xuất phát triển.
Kết cấu xã hội – giai cấp
Mỗi kiểu xã hội có kết cấu giai cấp xã hội riêng nhưng đều bao gồm hai giai cấp cơ bản đối lập nhau. Đó là chủ nô và nô lệ trong chế độ nô lệ, địa chủ và nông dân trong chế độ phong kiến, tư sản và vô sản trong chế độ TBCN. Hai giai cấp cơ bản của mỗi chế độ kinh tế – xã hội là sản phẩm đích thực của chế độ kinh tế – xã hội đó, đồng thời là những giai cấp quyết định sự tồn tại, sự phát triển của hệ thống sản xuất trong xã hội đó. Giai cấp thống trị là giai cấp tiêu biểu cho bản chất của chế độ kinh tế – xã hội đang tồn tại.
Ngoài hai giai cấp cơ bản trên còn có giai cấp không cơ bản (ví dụ là tập đoàn giai cấp tàn dư của phương thức sản xuất cũ hay tập đoàn giai cấp mầm mống của phương thức sản xuất tương lai ), tầng lớp trung gian ( bao gồm tầng lớp bình dân trong xã hội nô lệ; tầng lớp tiểu tư sản thành thị và nông thôn trong xã hội tư bản) và tầng lớp tri thức nó chỉ được gọi là một tầng lớp chứ không được gọi là giai cấp vì không gắn với một phương thức sản xuất nào.
Quan hệ giữa giai cấp với dân tộc trong lịch sử
Về quan hệ giữa giai cấp với dân tộc trong lịch sử, chúng có mối quan hệ mật thiết, không tách rời nhau và cũng không thay thế được cho nhau.
– Giai cấp cơ bản là sản phẩm trực tiếp của phương thức sản xuất đang tồn tại; giai cấp không cơ bản và các tầng lớp trung gian.
– Giai cấp cơ bản giữ vai trò quy định tính chất, xu hướng mối quan hệ giữa các dân tộc và xu hướng phát triển của dân tộc.
– Lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc không hoàn toàn đồng nhất với nhau.
– Vấn đề dân tộc còn tồn tại lâu dài và vấn đề giai cấp được giải quyết theo quan điểm của một giai cấp nhất định.
– Vai trò to lớn của vấn đề dân tộc trong sự phát triển của lịch sử và vai trò của cách mạng giải phóng dân tộc đối với cách mạng giải phóng giai cấp vô sản.
Vấn đề dân tộc và quan hệ giữa giai cấp với dân tộc trong thời đại ngày nay
Những biến đổi nổi bật trong thời đại ngày nay có thể nói đến, đó là:
– Cách mạng khoa học và công nghệ phát triển tạo ra những bước nhảy vọt về chất của lực lượng sản xuất đã thúc đẩy nhanh chóng quá trình xã hội hoá, quốc tế hoá các kết cấu giai cấp; các quan hệ giai cấp – dân tộc – nhân loại.
– Sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản đang ở thế có lợi, có ưu thế hơn chủ nghĩa xã hội
– Chế độ xã hội chủ nghĩa tiếp tục tồn tại; tuy bị suy yếu nhưng tiếp tục thích nghi, đổi mới để phát triển.
– Ưu thế của cơ chế thị trường trên toàn thế giới và sự phát triển nhanh của quá trình toàn cầu hoá.
Bới những biến đổi trên đây không làm mất tính chất của thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Nội dung vấn đề giai cấp hiện nay quan hệ chặt chẽ với vấn đề độc lập dân tộc; ngược lại, vấn đề xây dựng mối quan hệ bình đẳng giữa các dân tộc, vấn đề giải phóng dân tộc tác động mạnh mẽ đến cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân trên thế giới.
Trong thời đại ngày nay, yếu tố dân tộc trong sự phát triển xã hội và trong quan hệ dân tộc – giai cấp vận động theo hai xu hướng
– Xu hướng giảm tương đối vai trò yếu tố dân tộc và sự khác biệt giữa các dân tộc; tăng sự phụ thuộc, giao lưu lẫn nhau giữa các dân tộc.
– Xu hướng khẳng định và tăng cường yếu tố dân tộc, bản sắc dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giai cấp, nhân loại trong cách mạng Việt Nam
Tiếp thu quan điểm của V.I.Lênin, trên nền tảng truyền thống yêu nước và nhân ái của dân tộc Việt Nam, Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giai cấp, nhân loại trong cách mạng Việt Nam có thể nói đến một số nội dung cần chú ý sau:
– Trong giai đoạn mới thành lập, Hồ Chí Minh – Người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam – có quan điểm riêng, độc đáo về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc. Người cho rằng: “Phải kết hợp và giải quyết hài hòa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, song phải đặt lợi ích dân tộc lên trên hết và trước hết.” Luận điểm này của Người xuất phát từ cơ sở thực tiễn của phương Đông và Việt Nam. Hồ Chí Minh cho rằng Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc và tay sai nổi trội hơn mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với địa chủ phong kiến, giữa tư sản với vô sản. Do đó, không phải giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới giải quyết vấn đề dân tộc như ở phương Tây. Ngược lại chỉ có thể giải quyết vấn đề dân tộc mới giải phóng được giai cấp. Quyền lợi dân tộc và giai cấp là thống nhất, quyền lợi dân tộc không còn, thì quyền lợi mỗi giai cấp, mỗi bộ phận trong dân tộc cũng không thể thực hiện được. Quan điểm này sau này thể hiện rõ ở Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, năm 1941 do Người chủ trì:
“Trong lúc này quyền lợi của bộ phận giai cấp phải đặt dưới sự tồn vong sinh tử của quốc gia dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được tự do độc lập cho toàn dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Do vậy, Người kêu gọi: Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập” và “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Sự vận dụng sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và giai cấp trong chủ nghĩa Mác – Lênin có tác dụng lớn lao đối với việc tập hợp lực lượng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc ở Việt Nam cũng như ở các nước thuộc địa nói chung. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, trong khi nêu cao vấn đề dân tộc, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh không bao giờ hạ thấp hoặc coi thường vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp. Đối với Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, chủ nghĩa dân tộc chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản thống nhất với nhau. Hơn thế, trong những điều kiện nhất định, chủ nghĩa dân tộc có thể phát triển thành chủ nghĩa quốc tế vô sản, “khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi, thì đã lâu lắm rồi, phần lớn thế giới sẽ xôviết hóa và lúc đó, nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”(18). Bởi vậy, chủ nghĩa dân tộc theo Hồ Chí Minh, hoàn toàn không phải là thứ chủ nghĩa dân tộc phong kiến, tư sản hay của Quốc tế II, mà là chủ nghĩa dân tộc chân chính, theo lập trường chủ nghĩa Mác – Lênin, gắn dân tộc với quốc tế, dân tộc với giai cấp, hướng tới triệt để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Như vậy, chủ nghĩa dân tộc mà Hồ Chí Minh dùng ở đây, nói như C.Mác, không phải như giai cấp tư sản đã hiểu, mà là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính của người dân bản xứ.
– Đường lối cách mạng Việt Nam xuyên suốt và nhất quán qua các giai đoạn cách mạng với quan điểm: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cụ thể hóa bằng chính sách dân tộc trên 3 nguyên tắc: bình đẳng, đoàn kết, giúp nhau cùng phát triển.
Tại Đại hội VIII của Đảng đã rút ra 6 bài học chủ yếu của 10 năm đổi mới. Trong đó, bài học đầu tiên là “giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong quá trình đổi mới; nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiên trì chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Đặc biệt, tại Đại hội IX đã đưa ra luận điểm mang tầm khái quát lý luận về quan hệ giai cấp, lợi ích giai cấp và lợi ích giai cấp dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
“mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung: Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.”
Tiếp đến là Đại hội X của Đảng (năm 2006) tiếp tục nêu những quan điểm mới trong vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc ngay trong quan niệm về Đảng Cộng sản Việt Nam:
“Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc.”
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta khẳng định:
“Từ thực tiễn phong phú của cách mạng, Đảng ta đã rút ra những bài học kinh nghiệm lớn: nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội – ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc”.
– Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giải quyết mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc trên lập trường giai cấp vô sản, đấu tranh chống chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Do đó, Đảng ta nhấn mạnh, khi khẳng định đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết không có nghĩa là bỏ qua chủ nghĩa quốc tế vô sản, bỏ qua trách nhiệm quốc tế vì sự tiến bộ và phát triển của tất cả các dân tộc.
=> Dân tộc, giai cấp và mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cả về lý luận và thực tiễn đòi hỏi phải giải đáp. Điều đó càng cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu, học tập, quán triệt quan điểm của các nhà kinh điển, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp trong tình hình mới, làm cơ sở vững chắc cho việc vận dụng, hoạch định, tổ chức và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, để đưa dân tộc ta vượt qua mọi thử thách, vững bước trong quá trình xây dựng một đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
=> Kết luận: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giai cấp, nhân loại trong cách mạng Việt Nam, chúng ta có thể kết luận lạu với những nội dugn chính như:
– Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới.
– Giải phóng giai cấp phải gắn liền với giải phóng dân tộc, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
– Phát huy khối đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Quan hệ giai cấp, dân tộc, nhân loại trong cách mạng Việt Nam hiện nay
– Phát huy khối đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở liên minh công – nông – trí dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
– Giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với đại đoàn kết dân tộc.
– Giải quyết tốt mối quan hệ giữa giữ vững độc lập tự chủ với mở rộng quan hệ quốc tế, phát huy sức mạnh nội lực của dân tộc với tranh thủ sức mạnh của thời đại.
********************
Đăng bởi: THPT Ngô Thì Nhậm
Chuyên mục: Tổng hợp