Trạng Lường là cái tên quen thuộc của người dân Việt Nam, là một danh xưng đặt cho quan trạng toán đa tài của đất Việt. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết chính xác Trạng Lường là ai. Sau đây, trường THPT Ngô Thì Nhậm cùng với các bạn tìm hiểu Trạng lường là ai? Vì sao lại gọi là Trạng Lường.
Trạng Lường là ai?
Lương Thế Vinh (còn gọi là Trạng Lường, tên hiệu Thụy Hiên) sinh ngày 17/08/1441, trong một gia đình nông dân tại trấn Sơn Nam (nay là Nam Định). Ngay từ nhỏ ông đã nổi tiếng học rộng, tài cao, tự biết mài mò, sáng tạo nhiều trò chơi cũng như là cách có thể câu được nhiều cá bắt được nhiều chim, được người xa gần gọi là “Thần đồng”. Ông là một nhà toán học, Phật học, và chính trị gia thời Lê sơ. Ông đỗ trạng nguyên dưới triều Lê Thánh Tông và làm quan tại viện Hàn Lâm. Ông được biết đến nhiều nhất bởi các tác phẩm do ông biên soạn ở các lĩnh vực toán học, văn hóa và Phật giáo. Ông cũng còn được biết đến là một trong 28 nhà thơ của hội Tao Đàn do vua Lê Thánh Tông lập năm 1495. Nhờ khả năng về toán học và đo lường mà sau này ông được nhân dân gọi tên là Trạng Lường khi đỗ trạng nguyên.
Truyền thuyết về sự ra đời của Lương Thế Vinh
Dân gian xứ Sơn Nam còn lưu truyền hai giai thoại về sự ra đời của Lương Thế Vinh. Tương truyền, Quang Thục thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao lúc mang thai vua Lê Thánh Tông nằm mơ được lên thiên đình. Bà thấy Thượng đế sai tiên đồng giáng xuống làm vua nước Nam, tiên đồng xin thêm một bề tôi giỏi để phù giúp. Thượng đế chỉ định một viên tướng nhưng vị tướng đó từ chối, Thượng đế nổi giận ấn mạnh vào vai và bắt phải nhận lệnh.
Sau khi Lê Thánh Tông lên ngôi, Thái hậu kể lại cho vua giấc mộng lạ. Đến khoa thi Quý Mùi (1463) Lương Thế Vinh đỗ trạng nguyên, lúc vào yết kiến, vua thấy vai ông bị lệch, bèn đem chuyện này kể với Thái hậu.
Thái hậu cho gọi Lương Thế Vinh vào xem mặt thì thấy đúng là người đã gặp trong mộng. Bà vui mừng nói với vua, đây chính là vị bề tôi mà Thượng đế cử xuống. Từ đó, Lê Thánh Tông rất mực tin dùng, coi trọng tài năng của Lương Thế Vinh.
Câu chuyện thứ hai được ghi lại trong cuốn Kiến Văn Tiểu Lục của Lê Quý Đôn còn ly kỳ hơn, cho rằng Lương Thế Vinh là sao Văn Khúc từ trên trời giáng xuống nước Nam.
Vị trạng nguyên đa tài
Sau khi đỗ đạt, Lương Thế Vinh ra làm quan 32 năm, nổi tiếng thanh liêm, chính trực. Ông làm ở Viện hàn lâm, thăng đến chức Hàn lâm thị đứng đầu Viện hàn lâm.
Khi làm quan, Lương Thế Vinh đã nhận định về tình hình quan chức và nhấn mạnh: Việc yên hay loạn là do các quan. Ông cũng đề xuất với nhà vua, cần khảo tích xem rõ đúng sai, nắm chắc các quan, đã nắm chắc các quan thì chính sự không thể sai lầm, tệ xấu bỏ được, tất dân được nhờ.
Lương Thế Vinh nổi tiếng với tài năng toán học. Ông đã biên soạn cuốn sách Đại thành Toán pháp, được xem là cuốn sách giáo khoa toán đầu tiên ở nước ta. Thời Lương Thế Vinh, các công cụ tính toán ở Việt Nam rất nghèo nàn, thô sơ. Thời đó, mọi người chủ yếu tính toán bằng cách “bấm đốt ngón tay”, hoặc dùng sợi dây với những nút thắt làm công cụ đếm. Ông đã sáng chế ra bàn tính gẩy cho người Việt, lúc đầu làm bằng đất rồi bằng trúc, bằng gỗ, sơn màu khác nhau, đẹp và dễ tính, dễ nhớ.
Thú vị hơn là, nhà toán học Alexei Volko đã sử dụng ngôn ngữ toán học hiện đại để diễn giải các phép toán trong Đại thành toán pháp. Theo đó, Đại thành toán pháp có bao gồm các phép toán, thuật giải và kết quả số. Nội dung các bài toán bao gồm, bình phân và sai phân, tính diện tích thể tích, tam giác đồng dạng…
Ngoài việc nổi danh là nhà toán học, ông cũng nổi tiếng là nhà nghiên cứu tôn giáo, nghệ thuật với nhiều tác phẩm giá trị như Hý phường phả lục (nghiên cứu về Chèo), Thiền môn khoa giáo (còn gọi là Thích điển Giáo khoa).
Trạng nguyên Lương Thế Vinh mất tại quê nhà ngày 26/8 năm Bính Thìn (1496), thọ 55 tuổi. Khi ông qua đời, vua Lê Thánh Tông rất thương tiếc và đã viết một bài thơ khóc Trạng:
Chiếu thư thượng đế xuống đêm qua Gióng khách chương đài kiếp tại nhà Cẩm tú mấy hàng về động ngọc Thánh hiền ba chén ướt hồn hoa Khí thiên đã lại thu sơn nhạc Danh lạ còn truyền để quốc gia Khuất ngón tay than tài cái thế Lấy ai làm Trạng nước Nam ta
Vị quan thanh liêm và cứng rắn
Trong quá trình làm quan, Lương Thế Vinh đã nhận định về tình hình quan chức và nhấn mạnh: việc yên hay loạn là do các quan. Cũng từ đó, Lương Thế Vinh đề xuất với nhà vua cần phải khảo tích xem rõ đúng sai, nắm chắc các quan, đã nắm chắc các quan thì chính sự không thể sai lầm, dân sẽ được nhờ. Năm Đinh Hợi (1467), thời vua Lê Thánh Tông mới bước vào quan trường, quan Hàn lâm Lương Thế Vinh đã ba lần dâng sớ tố cáo bọn ăn hối lộ, bọn cậy quyền cậy thế. Tháng Giêng, năm Đinh Hợi (1467), Lương Thế Vinh thấy giám sát Ngự sở nhận tiền hối lộ để dung túng những tội ác, ông đã tâu lên nhà vua, Lê Thánh Tông hạ lệnh bắt giam người đó.
Vào tháng ba, Lương Thế Vinh lại phát hiện chỉ huy sứ vệ Vũ Lâm là Lê Tông Vĩnh khai mang tung tích để được thăng thưởng, nhà vua đã cắt chức Lê Tông Vĩnh. Cũng trong tháng này, Lương Thế Vinh lại dâng sớ tố Trấn điện tướng quân Bùi Huấn về tội rối loạn nhân luân coi thường lễ giáo, ruồng bỏ vợ, làm vợ ốm chết để lấy người khác trẻ đẹp hơn khiến nhà vua phải đưa ra pháp tu xét xử trị tội, làm gương cho người khác. Thậm chí ngay cả khi từ quan về ở ẩn, ông vẫn khiến cho nhiều tên quan lại hách dịch phải kinh sợ. Theo lời truyền tụng, một hôm ông đang đàm đạo cùng một số bô lão trong một quán nước, thì được tin quan huyện Thiên bảng sắp đi qua. Quan huyện vốn có tính hống hách hay quát nạt dân, Lương Thế Vinh nảy ra một ý bèn bảo các cụ đi, một mình ông ngồi lại.
Đến quán nước, bọn lính thấy ông một mình, bắt ông phải ra khiêng cáng. Ông bình thản ra khiêng cáng không nói năng gì. Khiêng được một dặm đường, khi ra khỏi làng gặp một người đi chợi về, ông vội gọi to: Này bác, bác về qua Vân Cát báo hộ với quan Thám hoa sang thay tôi khiêng cáng cho quan huyện – vị Thám hoa làng Vân Cát chính là học trò Lương Thế Vinh đậu khoa Mậu Tuất, đời Hồng Đức (1478). Quan huyện đang mơ màng trên võng, nghe ông nói thế, biết rằng ông chính là quan trạng Lương Thế Vinh, vội nhảy từ trên cáng xuống đất, dập đầu xin tha tôi. Lương Thế Vinh nghiêm khắc răng dạy, từ nay về sau không được hành hạ người dân như thế này nữa. Quan huyện lạy tạ mời ông ngồi lên cáng tự mình khiêng cáng ông về nhà. Lương Thế Vinh xua tay từ chối.
Về vấn đề khoa cử năm Bính Ngọ, thời Hồng Đức thứ 12 (1486), Lương Thế Vinh đã dâng sớ tâu vua chấn chỉnh lại việc tổ chức khoa cử. Lúc đó các quan viên thư lại tuy chưa đổ kì thi Hương đã được vào thi Hội dẫn đến tình trạng có người không học đến nơi đến chốn vẫn tìm cách đỗ đạt. Vua Lê Thánh Tông đã ra sắc chỉ, quan viên ai muốn theo đuổi khoa cử, nhất thiết phải qua phủ huyện sát hạch như lệ thường dân, thi Hương đậu mới cho vào thi Hội. Từ đó việc thi cử mới trở lại nghiêm chỉnh, chọn được nhiều người hiền tài cho đất nước.
Video về Trạng lường là ai? Vì sao lại gọi là Trạng Lường
Kết luận
Bài viết đã cung cấp đến các bạn câu trả lời cho câu hỏi Trạng lường là ai? Vì sao lại gọi là Trạng Lường, Trạng Lường là một trong những nhà Toán học hiếm hoi của Việt Nam. Xin cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết của chúng tôi.
Đăng bởi: THPT Ngô Thì Nhậm
Chuyên mục: Tổng hợp