Hiện nay, tuy Việt Nam đang trong giai đoạn đất nước hòa bình những trước tình hình thế giới và khu vực trên thế giới vãn có những diễn biến phức tạp, khó lường, sự chống phá của các thế lực thù địch. Do đó, một trong những nhiệm vụ và mục tiêu không thể lơ là đó chính là nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đặt ra yêu cầu rất cao đối với công tác xây dựng quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Ngoai những lực lượng tham gia trực tiếp trong lực lượng quân đội được huấn luyện chuyên nghiệp thì trong đó có lực lượng Dân quân tự vệ cũng được pháp luật quy định và đề cao vai trò của lực lượng này. Đảng và Nhà nước ta luôn đề cao việc xây dựng đội ngũ Dân quân tự vệ vững mạnh để đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ thực tiễn. Trong lực lượng dân quân tự vệ thì không thể nào bỏ qua được lực lượng dân quân tự vệ tại chỗ. Vậy theo như quy định của pháp luật hiện hành thì Dân quân tự vệ tại chỗ là gì? Quy định về dân quân tại chỗ có nội dung như thế nào? Trong nội dung bài viết dưới đây, THPT Ngô Thì Nhậm sẽ gửi tới quý bạn đọc nội dung về dân quân tự vệ tại chỗ như sau:
Cơ sở pháp lý: Luật Dân quân tự vệ năm 2019
1. Dân quân tự vệ tại chỗ là gì?
Trưỡ khi đi vào tìm hiểu về khái niệm dân quân tự vệ tại chỗ là gì? Thì tác giả sẽ nêu khái quát về khái niệm của dân quân tự vệ cho quý bạn đọc biết thêm và củng cố thông tin về lực lượng này. Do đó, trên cơ sở quy định của pháp luật hiện hành và cụ thể là theo như quy định tại khoản 1 điều 2 Luật Dân quân tự vệ, Dân quân tự vệ là lực lượng vũ trang quần chúng không thoát ly sản xuất, công tác, được tổ chức ở địa phương gọi là dân quân, được tổ chức ở cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế gọi là tự vệ. Thành phần của Dân quân tự vệ bao gồm:
– Dân quân tự vệ tại chỗ.
– Dân quân tự vệ cơ động.
– Dân quân thường trực.
– Dân quân tự vệ biển.
– Dân quân tự vệ phòng không, pháo binh, trinh sát, thông tin, công binh, phòng hóa, y tế.
Trong đó, theo như quy định tại khoản 2 Điều 2 Luật Dân quân tự vệ quy định về khái niệm của dân quân tự vệ tại chỗ đó chính là: “Dân quân tự vệ tại chỗ là lực lượng làm nhiệm vụ ở thôn, ấp, bản, làng, buôn, bon, phum, sóc, tổ dân phố, khu phố, khối phố, khóm, tiểu khu (sau đây gọi chung là thôn) và ở cơ quan, tổ chức”.
Trong thời bình, Dân quân tự vệ là lực lượng nòng cốt, vừa làm nhiệm vụ sản xuất, vừa làm nhiệm vụ tiên phong bảo vệ sản xuất, phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, địch họa và các sự cố nghiêm trọng khác. sự cố. Đồng thời, phối hợp với lực lượng an ninh cơ sở giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn công cộng trên địa bàn, tham gia xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện, góp phần xây dựng địa phương ngày càng vững mạnh. khu vực phòng thủ. Ở các vùng biên giới, biển, đảo, Dân quân tự vệ phối hợp với Bộ đội Biên phòng bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh biên giới của Tổ quốc. Trong thời chiến, Dân quân tự vệ trở thành lực lượng chiến lược tiến hành chiến tranh nhân dân, làm nòng cốt trong phong trào toàn dân đánh giặc, tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu, phối hợp với các lực lượng khác. bảo vệ địa phương, đơn vị theo kế hoạch tác chiến của khu vực phòng thủ. Dân quân tự vệ thực hiện công tác phòng thủ dân sự cả trong thời bình và thời chiến theo quy định của pháp luật.
Trong thời chiến, Dân quân tự vệ trở thành lực lượng chiến lược tiến hành chiến tranh nhân dân, làm nòng cốt trong phong trào toàn dân đánh giặc, tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu, phối hợp với các lực lượng khác. bảo vệ địa phương, đơn vị theo kế hoạch tác chiến của khu vực phòng thủ. Dân quân tự vệ thực hiện công tác phòng thủ dân sự cả trong thời bình và thời chiến theo quy định của pháp luật. Lực lượng Dân quân tự vệ ngày nay đã có bước phát triển về chất lượng, số lượng, tổ chức bộ máy, trang bị. Tổ chức bộ máy gọn nhẹ nhưng chất lượng toàn diện của Dân quân tự vệ được nâng lên, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.
2. Quy định về dân quân tại chỗ?
Trên cơ sở quy định tại Điều 4 của Luật Dân quân tự vệ thì dân quân tai chỗ được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc sau:
– Thứ nhất, dân quân tại chỗ cũng nhứ các thành phần dân quân khác của dân quân tự vệ thì sẽ hoạt động đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước, sự quản lý thống nhất của Chính phủ. Mà cụ thể ở đây thì lượng lượng dân quân tại chỗ này được quy định là hoạt động theo sự chỉ đạo trực tiếp và quy định thực tế của từng địa phương và dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, người đứng đầu cơ quan, tổ chức; sự chỉ huy cao nhất của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; sự chỉ huy của Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, người chỉ huy đơn vị quân đội.
– Thứ hai, lực lượng dân quân tại chỗ cũng là công dân Việt nam, sống và hoạt động dưới sự quản lý của Đảng và Nhà nước Việt nam nên cần phải nhất nhất tuân thủ Hiến pháp, pháp luật và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Không những thế mà lực lượng dân quân tại chỗ được biết đến là lực lượng suất thân từ nhân dân và sống và làm việc cùng với dân và nhờ vào dân. Chính vì vậy mà lực lượng này cần dựa vào dân, đồng thời thì cần phải phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc và hệ thống chính trị để thực hiện nhiệm vụ.
– Thứu ba, xây dựng Dân quân tự vệ nói chung và lực lượng dân quân tại chỗ nói riêng thật sự vững mạnh và rộng khắp. Mặt khác thì theo như quy định của pháp luật hiện hành thì cần phải tổ chức, biên chế của Dân quân tự vệ phải đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, gắn với địa bàn và nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, tổ chức; thuận tiện cho lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy, quản lý và phù hợp với tình hình, điều kiện kinh tế – xã hội của từng địa phương, cơ quan, tổ chức.