Đề bài: Thuyết minh về một lễ hội truyền thống dân tộc
Thuyết minh về một lễ hội truyền thống dân tộc
Bạn đang xem: Thuyết minh về một lễ hội truyền thống dân tộc
I. Dàn ý Thuyết minh về một lễ hội truyền thống dân tộc
(Lễ hội Đền Hùng)
1. Mở bài
Cứ hàng năm, những người con dân tộc Việt luôn hướng về quê hương Phú Thọ thân yêu dịp 10/3 âm lịch để tưởng nhớ công ơn của các vua Hùng dựng nước. Đó cũng là dịp mà lễ hội Đền Hùng diễn ra.
2. Thân bài
*Lịch sử lễ hội:– Đã có từ lâu đời- Từ thời Đinh, Lý, Tiền Lê, thời Trần thì nhân dân khắp cả nước đều tụ hội về đây lễ bái gửi lòng cảm tạ thành kính đến công ơn của mười tám đời vua Hùng.
* Thời gian diễn ra: Ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm+ Năm lẻ: Do tỉnh nhà Phú Thọ tổ chức+ Năm chẵn: Do Trung ương phối hợp với ủy ban nhân dân tỉnh và bộ văn hóa tổ chức…(Còn tiếp)
>> Xem Dàn ý Thuyết minh về một lễ hội truyền thống dân tộc đầy đủ tại đây.
II. Bài văn mẫu Thuyết minh về một lễ hội truyền thống dân tộc
1.Thuyết minh về một lễ hội truyền thống dân tộc- Lễ hội đền Hùng (Chuẩn)
“Dù ai đi ngược về xuôiNhớ ngày giỗ tổ mùng mười, tháng ba”
Cứ hàng năm, những người con dân tộc Việt luôn hướng về quê hương Phú Thọ thân yêu dịp 10/3 âm lịch để tưởng nhớ công ơn của các vua Hùng dựng nước. Đó cũng là dịp mà lễ hội Đền Hùng diễn ra.
Theo lịch sử ghi lại, lễ hội đền Hùng đã có từ lâu đời. Ngay từ thời Đinh, Lý, Tiền Lê, thời Trần thì nhân dân khắp cả nước đều tụ hội về đây lễ bái gửi lòng cảm tạ thành kính đến công ơn của mười tám đời vua Hùng đã có công dựng nước, giữ nước. Lễ hội ấy được giữ gìn cho đến ngày nay và trở thành một nét đặc sắc trong văn hoá dân tộc, cũng từ đấy ngày 10/3 âm lịch hàng năm được xem là một ngày quốc lễ của nước ta. Vào những năm lẻ, lễ hội Đền Hùng đó tỉnh nhà Phú Thọ tổ chức, những năm chẵn do Trung ương phối hợp với bộ văn hóa thể thao du lịch cùng uỷ ban tỉnh Phú Thọ phối hợp tổ chức. Dù tổ chức theo quy mô lớn hay nhỏ thì phần hội và phần lễ vẫn diễn ra vô cùng long trọng và linh đình, tín ngưỡng thờ cúng vua Hùng chính thức được UNESCO công nhận là “Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại” vào năm 2002 đã chứng minh cho sức sống lâu bền và giá trị độc đáo của lễ hội này. Nhiều địa phương trên cả nước như Đà Nẵng, Hà Nội,…đã tổ chức lễ hội này như một nét đẹp để giáo dục con cháu mai sau không quên đi nguồn cội dân tộc và cố gắng học tập dựng xây đất nước để đến đáp công lao dựng nước của ông cha.
Phần lễ gồm lễ rước kiệu và lễ dâng hương. Lễ hội rước kiệu vừa được diễn ra trong không khí đầy long trọng với những cờ, lộng, hoa đầy màu sắc. Trong làng, ai ai cũng phấn khởi và sắm cho mình bộ trang phục truyền thống để tham dự phần lễ. Đoàn đại biểu trung ương, tỉnh, thành phố đều tập trung tại một địa điểm cùng đoàn xã tiêu binh rước vòng hoa tới chân núi Hùng. Đoàn đại biểu đi sau kiệu lễ, kiệu lễ được chuẩn bị chu đáo từ trước. Chặng đường rước kiệu lên đền có tiếng nhạc phường bát âm, có đội múa sinh tiền tạo nên vẻ trang trọng của một nghi lễ dân tộc. Sau khi tới đền, đoàn người kính cẩn dâng lễ vào thượng cung, mọi việc đều tiến hành rất cẩn thận, chi tiết và nhanh chóng. Sau đó, đại biểu đại diện bộ Văn hoá thấy mặt cho lãnh đạo tỉnh và nhân dân cả nước trịnh trọng đọc chúc căn lễ tổ, mọi người ai nấy đều chăm chú lắng nghe trong nỗi niềm đầy xúc động và thành kính. Tất cả đều thành tâm dâng lễ với ước nguyện mong tổ tiên phù hộ cho con cháu quê nhà.
Bài văn Thuyết minh về lễ hội Đền Hùng ở Phú Thọ
Tiếp đến là lễ dâng hương, mỗi người con đến với cùng đất này đều mong muốn thắp lên đền thờ nén nhang thành kính, nhờ hương khói nói hộ tâm nguyện của lòng mình với tổ tiên. Mỗi tấc đất, ngọn cỏ, gốc cây nơi đây đều được coi là linh thiêng. Với những người ở xa không về được hoặc không có điều kiện đến đây, tới ngày này họ vẫn dành thời gian để đi lễ chùa thắp nén hương tưởng nhớ nguồn cội, đâu đâu cũng đông đúc, náo nhiệt và tưng bừng.
Xong phần lễ là đến phần hội, nếu lẽ mang sự trang nghiêm thì phần hội mang đến nét vui vẻ, thoải mái cho mỗi người. Ở phần hội, nhiều trò chơi dân gian được diễn ra nhiều chọi gà, đu quay, đấu vật hay đánh cờ tướng,,..thu hút mọi người tham gia, các đội chơi ai cũng mong phần thắng mang về danh dự cho quê mình. Bên cạnh đó, nhiều trò chơi hiện đại cũng được lòng ghép hài hoà đáp ứng thị hiếu, đam mê sở thích của mọi lứa tuổi. Đặc biệt, không thể thiếu được trong dịp lễ này là các hình thức dân ca diễn xướng, hát quan họ hay kịch nói được diễn ra bằng hình thức thi tài giữa các làng, các thôn nhằm giao lưu văn hoá, văn nghệ. Những lời ca mượt mà êm ái trong từng làn điệu Xoan- Ghẹo đầy hấp dẫn mang đậm dấu ấn vùng đất Phú Thọ. Giữa trung tâm lễ hội được trưng bày khu bảo tàng Hùng Vương lưu giữ những di vật cổ của thời đại các vua Hùng xưa, tạo điều kiện cho những người đến thăm quan tìm hiểu, chụp ảnh lưu niệm. Ngoài ra, trong khu vực diễn ra lễ hội, nhiều mặt hàng lưu niệm được bày bán cho du khách mua làm quà kỉ niệm, các dịch vụ văn hoá phẩm hay ăn uống với những món ăn truyền thống và hiện đại cũng được tổ chức linh hoạt.
Hiện nay, khi đất nước phát triển hơn, nhà nước không chỉ chăm lo đến đời sống vật chất và còn cố gắng để phát huy những giá trị tinh thần cao đẹp. Báo chí, đài truyền hình, thông tấn xã vẫn là cầu nối tuyệt vời đưa những giá trị tín ngưỡng đến với tất cả đồng bào trên mọi miền tổ quốc và nhân dân thế giới biết và hiểu hơn về những nét đẹp của lễ hội truyền thống dân tộc Việt.
2. Thuyết minh về lễ hội truyền thống dân tộc: Lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn (Chuẩn)
“Dù ai buôn đâu bán đâuMùng chín tháng tám chọi Trâu thì vềDù ai buôn bán trăm nghềMùng chín tháng tám nhớ về chọi Trâu”
Việt Nam ta là một đất nước có nền văn hiến hơn bốn ngàn năm, với sự phong phú và đa dạng của các thể loại văn hóa, phong tục truyền thống, đặc biệt là các lễ hội dân gian. Mà ở mỗi một địa phương, một vùng miền lại có những kiểu lễ hội khác nhau được tổ chức quanh năm, với nhiều những nét đặc sắc thể hiện những nét tín ngưỡng, ý nghĩa độc đáo. Một trong những lễ hội đáng chú ý phải kể đến lễ hội chọi trâu Đồ Sơn.
Không rõ lễ hội chọi trâu Đồ Sơn có từ khi nào, chỉ biết rằng đây là một tập tục, truyền thống có từ rất lâu đời của những người dân vạn chài tại vùng biển Đồ Sơn, tỉnh Hải Phòng được giữ gìn và phát triển cho tới ngày hôm nay. Lễ hội diễn ra vào ngày 9/8 âm lịch hàng năm, thu hút sự tham gia của hàng ngàn du khách từ khắp nơi và được xem là một trong những hoạt động văn hóa quan trọng nhất của những người dân nơi đây. Vào năm 2013, xét về những giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc và tiêu biểu, lễ hội chọi trâu Đồ Sơn đã vinh dự được xếp vào một trong những Di sản Văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia.
Thuyết minh về lễ hội chọi trâu ở Đồ sơn- lễ hội truyền thống tại Hải Phòng
Về nguồn gốc của lễ hội này trong dân gian có lưu truyền kha khá các truyền thuyết, sự tích khác nhau. Trong đó nổi tiếng nhất là thần tích “Tước Điểm Đại Vương” – vị Thủy Thần cai trị vùng biển Đồ Sơn, chuyện kể rằng vào khoảng thế kỷ thứ XIX, có một người dân đi qua đền thờ của vị tôn thần này thì vô tình được chứng kiến cảnh hai con trâu đang húc nhau, tuy nhiên khi nghe thấy tiếng động thì chúng liền bỏ chạy xuống biển. Người ta cho rằng hai con trâu ấy là vật cưỡi dưới trướng vị thủy thần này, chính về vậy hàng năm vào ngày 9.8 âm lịch, người dân nơi đây tiến hành tổ chức lễ chọi trâu để tế thần, nhằm chọn ra những con trâu to khỏe nhất để tham gia hiến tế cho thần linh. Cũng có một tích khác kể về việc một cô thôn nữ được vua Thủy Tề cưới về làm vợ, bãi biển chỗ đám rước nàng đi qua hàng năm tôm cá tập trung về nhiều vô kể. Chính vì vậy để đảm bảo công bằng người dân đã tổ chức lễ chọi trâu, làng nào có trâu chọi thắng thì được quyền đánh bắt ở vùng biển ấy một năm. Cũng có tích kể rằng sở dĩ nơi đây có lễ hội chọi trâu là để làm yên lòng cá Kình dưới biển, hàng năm người dân tổ chức chọi trâu, rồi đem con trâu thắng đi hiến tế để cầu mong cho dân làng đi biển không bị cá kình ăn thịt nữa,…(Còn tiếp)
>> Xem bài mẫu đầy đủ TẠI ĐÂY.
3. Thuyết minh về lễ hội truyền thống dân tộc: Lễ hội đền Trần (Chuẩn)
Từ bao đời nay, lễ hội đã trở thành một điểm tựa tinh thần, ghi lại những nét đẹp của phong tục truyền thống Việt Nam. Xuân về, trăm hoa đua nở, hòa chung trong bầu không khí căng tràn sức sống là sự xuất hiện của nhiều lễ hội. Nhắc tới lễ hội ngày xuân, không thể không nhắc lễ hội đền Trần – một trong những lễ hội nổi tiếng của dân tộc Việt Nam.
Lễ hội đền Trần gồm lễ khai ấn và lễ hội lớn. Lễ hội đền Trần ngày xuân được nhiều người biết đến cùng với Lễ hội khai ấn đền Trần, là một trong những lễ hội được tổ chức với mục đích tri ân các vị vua Trần. Nguồn gốc ra đời của lễ hội đền Trần gắn liền với lịch sử của đền Trần. Đền Trần tọa lạc ở đường Trần Thừa, thành phố Nam Định, là nơi thờ các vị vua Trần cùng các quan lại phò tá nhà Trần. Đền Trần được xây dựng năm 1965 trên nền Thái Miếu cũ, tuy nhiên đền đã bị phá hủy bởi giặc Minh vào thế kỉ XV. Đền Trần có 3 công trình kiến trúc chính gồm: đền Thiên Trường (đền Thượng), đền Cố Trạch (đền Hạ) và đền Trùng Hoa. Đến năm 1705, đền chính thức gọi là Trần Miếu (miếu nhà Trần).
Lễ khai ấn đền Trần đầu tiên được tổ chức vào năm năm 1239. Đây là nghi lễ triều đại nhà Trần thực hiện tế tiên tổ. Những năm chống giặc Nguyên Mông, nhà Trần thực hiện kế sách “vườn không nhà trống” nên rút toàn bộ quân về Thiên Trường, lễ khai ấn bị gián đoạn tới năm 1262 mới được mở lại. Tuy nhiên, trải qua bao thăng trầm lịch sử, ấn cũ của triều Trần bị thất lạc. Mãi đến năm 1822, vua Minh Mạng ghé thăm Thiên Trường biết được, cho khắc lại ấn. Ấn cũ khắc “Trần triều chi bảo”, ấn mới khắc “Trần triều điển cố” ngụ ý nhắc lại tích cũ, dưới đó có thêm câu “Tích phúc vô cương”.
Nhân dân duy trì nhiều năm, đến nay lễ khai ấn Đền Trần vẫn được duy trì, phát triển. Lễ khai ấn được cố định tổ chức vào ngày rằm tháng Giêng hàng năm, lúc 11 giờ đêm ngày 14 đến 1 giờ sáng ngày 15. Khai ấn vào thời điểm này mang ý nghĩa như tín hiệu đánh dấu kết thúc những ngày tết cổ truyền dân tộc, nhắc nhở nhân dân tiếp tục công cuộc lao động sản xuất. Ngoài ra, lễ hội đền Trần còn có cả lễ hội lớn được mở vào 15 đến 20 tháng 8 âm lịch hằng năm với nghi thức lễ rước từ các đền xung quanh về dâng hương và tề tựu ở đền Thiên Trường và Cố Trạch.
Nghi lễ trong lễ hội đền Trần rất thú vị. Trước tiên, nói về nghi lễ khai ấn, các bậc bô lão truyền lại rằng vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu, đúng rằm tháng giêng, trước sân đền Thượng tổ chức nghi lễ Khai ấn với sự tham gia của bảy làng: Vọc, Lốc, Hậu Bồi, Bảo Lộc, Kênh, Bái, Tức Mặc. Tại đền Cố Trạch, thế hệ lão ông, lão bà khoác lên mình áo dài khăn xếp cùng dân làng tề tựu đông đủ để tham dự lễ tế thánh rồi dự lễ khai ấn. Hòm ấn được đặt trang trọng trên bàn thờ, bên trong có 2 con dấu bằng đồng. Phía trên mặt ẩn nhỏ có hai chữ “Trần Miếu”, còn trên mặt ấn lớn có chữ “Trần triều tự điển tích phúc vô cương”.
Thuyết minh về lễ hội truyền thống- Đền Trần
Đến đúng giờ Tý (khoảng 23 giờ – 1 giờ đêm), tiếng pháo vang lên báo hiệu buổi lễ bắt đầu. Một cụ già cao tuổi sẽ đứng lên thay mắt dân làng làm lễ, xin rước ấn lên kiệu. Đoàn người rước hòm ấn theo nhịp trống chiêng cùng đèn nến sáng lung linh tiến sang đền Thiên Trường tiếp tục làm lễ. Trước tiên là lễ dâng hương lên bàn thờ Trung Thiên sau đó rước ấn và làm lễ xin khai ấn. Người bồi tế đặt 1 loại giấy dân gian của Việt Nam lên trước tế chính, chiêng trống nổi lên. Chủ tế trịnh trọng đóng ấn mực đỏ vào tờ giấy, cạnh đó ghi rõ ngày, tháng, năm, viết làm sao tính đúng đến cuối phải là chữ sinh. Giấy có dấu son được chia phát cho những người có mặt trong buổi lễ, đem về treo trong nhà để lấy may và xua đuổi rủi ro, tà ám.
Sang tới sáng ngày 15 tháng Giêng, dân làng sẽ tổ chức rước nước. Trước khi bắt đầu, người tế chính vào lễ xin 1 nén hương ở bát hương tổ và 14 nén hương ở các bát hương Hoàng đế. Sau đó cắm vào bát nhang công đồng trên kiệu 8 chân. Cả đoàn rước lễ phục trang nghiêm, nghênh kiệu ra cổng đền, rồi dừng lại làm lễ tế trời đất sau đó mới tiếp tục ra bến sông Hồng.
Tại bến Hữu Bị cách đền khoảng 3km, kiệu dừng lại. Người dân gióng trống khua thuyền đã trang trí cờ hoa ra giữa sông, người tế chính múc nước trong vào bình sẵn. Khi nước đầy bình thì được rước kiệu về theo đường cũ. Nước trong bình sẽ được cho vào các bát và đặt lên bàn thờ làm lễ tế nước. Tế xong thì đưa cho con cháu họ Trần uống ghi nhớ cội nguồn tổ tiên. Đến ngày 16 buổi sáng, lễ tế cá sẽ diễn ra tại đền Thiên Trường. Cá quả, cá chép ứng với hai vị tổ họ Trần là Trần Kinh và Trần Lý được đựng trong thúng sơn đỏ. Làm lễ tế xong thì rước thả ra sông Hồng. Bên cạnh đó cũng có rất nhiều trò chơi dân gian đặc sắc như chọi gà, đấu vật, múa lân, chơi cờ thẻ, đi cầu kiều, hát văn,… Không khí náo nhiệt, vui tươi, ngập tràn màu sắc và hơi thở truyền thống dân tộc.
Cũng giống như những lễ hội khác của dân tộc, lễ hội đền Trần không chỉ mang giá trị vật thể mà còn có giá trị tinh thần vô cùng sâu sắc. Nó là chứng nhân lịch sử hào hùng của dân tộc đồng thời cũng là nơi ghi dấu công lao, gửi gắm lòng tri ân thành kính của bao thế hệ người Việt với thế hệ đi trước. Hiện nay, lễ hội đền Trần còn trở thành một nét đẹp văn hóa độc đáo thu hút du khách trong và ngoài nước. Mỗi năm vào đầu xuân, đền Trần đón tiếp hàng nghìn du khách thập phương về dự đêm khai ấn, bày tỏ lòng thành kính biết ơn và cầu mong những điều tốt đẹp.
Lễ hội đền Trần từ đó đã trở thành một hoạt động văn hóa mang tính nhân văn sâu sắc. Góp phần thể hiện truyền thống yêu nước và đạo lý “uống nước nhớ nguồn” cao đẹp của nhân dân ta. Không chỉ là một lễ hội ngày xuân nổi tiếng, Lễ hội Đền Trần còn là niềm tự hào của người con Nam Định và cả dân tộc Việt Nam.
4. Thuyết minh lễ hội truyền thống ăn mừng lúa mới ở Tây Nguyên
Lễ hội mừng lúa mới là một trong những nét văn hóa đặc sắc của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên từ bao đời nay, dẫu trải qua nhiều thăng trầm biến đổi của đất nước, thế nhưng cả trong thời chiến và thời bình nó vẫn luôn được giữ gìn nguyên vẹn, thiêng liêng không chỉ bộc lộ vẻ đẹp tinh thần của cả một cộng đồng dân tộc lớn mà đó là những nỗ lực trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc nhiều đời, là sự đoàn kết mạnh mẽ trong cộng đồng các dân tộc anh em.
Việt Nam ta có 54 dân tộc anh em tất cả, trong đó mỗi dân tộc cùng chung sống trên dải đất hình chữ S lại có những phong tục tập quán, những nét đẹp truyền thống đặc sắc cho riêng mình, ví như người Kinh nổi tiếng với lễ hội Đền Hùng, lễ hội Thánh Gióng, lễ hội chùa Hương,… thì ở vùng núi phía Bắc các dân tộc ở nơi đây lại đặc biệt với các lễ hội Cầu mưa, lễ hội Hoa Ban, lễ hội Lồng Tồng, hay việc ăn tết Thanh Minh rầm rộ, rộn ràng hơn cả Tết Nguyên Đán,… Còn với các dân tộc Tây Nguyên, một điều chung nhất khi cảm nhận về họ đó chính là hơi thở mạnh mẽ và máu lửa của núi rừng bạt ngàn, đầy nắng và gió, ở đây có lễ hội cồng chiêng, lễ hội đâm trâu, và khá đặc biệt ấy là lễ hội mừng lúa mới.
Lễ mừng lúa mới là một lễ hội truyền thống của nhiều dân tộc ở Tây Nguyên như Xơ Đăng, Gia Rai, Ba – na, M’nông, Ê – đê,… diễn ra vào khoảng tháng 11 dương lịch hoặc vào khoảng sau Tết Nguyên Đán hàng năm. Khi mà vụ mùa thu hoạch đã xong xuôi, thóc đã được phơi khô chất vào trong nhà, mọi người được rảnh rang, đây cũng là lúc thích hợp nhất cho việc tổ chức một lễ hội ăn mừng. Nhưng thông thường khoảng thời gian sau Tết từ tháng 2 đến tháng 4 là lúc lễ hội hay diễn ra nhất, đây là khoảng thời gian người ta gọi là “ăn năm uống tháng”, tức là chỉ cần vui chơi, ăn uống thỏa thích, bỏ qua hết chuyện ruộng vườn, sinh nhai. Ý nghĩa của lễ hội mừng lúa mới là để tạ ơn Giàng đã ban cho con dân một mùa thóc lúa bội thu, đồng thời cũng là để tôn vinh hạt thóc mới, cầu chúc cho năm sau mùa màng được ấm no, ổn định. Mà theo như ông Nguyễn Quang Tuệ – Trưởng phòng Di sản, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Gia Lai đã nhận xét rằng: “Bản chất của việc cúng Yang trong lễ mừng lúa mới là kêu gọi thần linh phù hộ cho dân làng. Về mặt ý nghĩa là tôn trọng nghề nông, tôn trọng người làm nông, tôn trọng cây lúa. Và bao trùm lên tất cả, nó là biểu hiện của tín ngưỡng vạn vật hữu linh. Vì đồng bào tin tưởng vào tín ngưỡng vạn vật hữu linh. Nên đồng bào thể hiện rằng, chúng tôi đã đền ơn, đáp nghĩa thần linh như thế. Nó tạo nên sự thoải mái trong tư tưởng. Thứ hai là ở trong cộng đồng, nó tạo nên một không khí vui tươi, thoải mái. Về mặt văn hóa, nó như một hình thức bảo lưu các giá trị văn hóa truyền thống”. Bởi vậy nên trong lễ hội mừng lúa mới người ta cúng Giàng trước tiên, theo sau đó là các lễ cúng chư vị thần linh ứng với mỗi một điều kiện thời tiết trong sản xuất bao gồm: cúng trời đất, các thần sông suối, thần núi, thần mưa, thần sấm, thần mùa màng để cầu cho mưa thuận gió hòa.
Bài văn Thuyết minh về lễ hội ăn mừng lúa mới ở Tây Nguyên hay nhất
Cũng giống như quy trình của nhiều lễ hội khác, lễ hội mừng lúa mới cũng có hai phần chính là phần lễ và phần hội. Ở phần lễ người chủ trì là già làng, quá trình chuẩn bị được bắt đầu ngay trong mùa thu hoạch, khi già làng là người đích thân xem xét và chọn ra một đám ruộng màu mỡ, những hạt lúa dày, trĩu nặng và đẹp nhất để lại để làm lễ cúng thần La Pôm (thần lúa, thần nông nghiệp) ở tại chân đám ruộng được chọn luôn. Đối với những vật dụng, thức ăn dành cho quá trình tế lễ không phải là riêng một ai chuẩn bị mà tất cả bà con trong buôn làng đều có nghĩa vụ đóng góp mỗi nhà một ít như ché rượu, miếng thịt, đĩa xôi, con gà luộc, bánh trái, cơm lam, ai giàu có thì đóng góp con lợn, … để thể hiện lòng thành, đồng thời cũng bộc lộ sự đoàn kết và có trách nhiệm của mọi người trong cộng đồng dân tộc. Sau đó để đảm bảo đúng nghi lễ, nghi thức và sự thiêng liêng, trang trọng, đích thân thầy cúng (Yiu Rang) và già làng sẽ tự tay chuẩn bị sắp xếp mâm cỗ cúng, và đọc văn khấn để cầu chúc cho dân làng được ấm no, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu vào năm tới, đồng thời tỏ lòng biết ơn đối với các bề trên là thần La Pom và các vị thần mưa, thần sông suối, thần núi, thần sấm,… Lời cúng rằng: “Ơ Yang, Yang Chư, Yang Ya, Yang Moa, Yang Pơ Te, Yang Clai, Yang Clo…, xuống chơi làng tôi. Ngày nay, tôi có khấn lên một con heo to, một con gà to, ghè rượu to. Mời Yang xuống uống rượu cần. Sau này, Yang phù hộ cho làng tôi có lúa nhiều để tôi nuôi con cái, làm ăn phát đạt, không ốm yếu, không đói, để cả làng no ấm. Ơ Yang!”. Sau khi đã kết thúc phần khấn vái, thì già làng sẽ chọn ra mười thanh niên nam nữ, khỏe mạnh, cùng xuống ruộng, tay nắm lấy các bó lúa đã được chuẩn bị sẵn, cứ sau mỗi một lời khấn của thầy cúng, nhóm thanh niên sẽ đồng loạt giơ cao bó lúa trong tay mình lên trời và hô to, đồng thời nhảy múa, hát hò theo để thể hiện sự vui mừng, náo nhiệt của một mùa màng ấm no, sung túc. Nghi lễ này không chỉ là một nét đặc sắc của lễ hội mừng lúa mới mà nó là một trong những hình thức thể hiện tình đoàn kết, gắn bó, sự giản dị, thiêng liêng của những người con tại mảnh đất thiêng Tây Nguyên.
Sau phần lễ mang nặng nghi thức, nghi lễ, thì ở phần hội mọi người lại được tự do vui chơi thoải mái, tất cả dân làng cùng tụ tập lại nhà rông ăn uống, nhảy múa hát hò, theo tiếng chiêng, nhịp trống, tối đến thì nhảy múa xung quanh đống lửa, sau khi đã vui chơi thỏa thích, thì ai lại về nhà nấy, để tổ chức lễ cúng riêng cho nhà mình. Tùy theo gia cảnh, vụ mùa thu hoạch được nhiều hay ít mà gia chủ có thể tổ chức lễ cúng lớn hay nhỏ, một ngày hay nhiều ngày. Đối với bà con dân tộc Tây Nguyên thì lễ mừng lúa mới cũng tương tự như Tết Nguyên Đán là dịp lễ lớn trong năm, là lúc mọi người nghỉ ngơi, vui chơi, đến thăm nhà nhau, chúc tụng, sum họp,… Nhà ai có nhiều khách ghé thăm thì được coi là một niềm vinh dự lớn, là sự may mắn rất đáng trân trọng, được Giàng phù hộ.
Lễ hội mừng lúa mới là một trong những nét văn hóa đặc sắc của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên từ bao đời nay, dẫu trải qua nhiều suy vi biến đổi của đất nước, thế nhưng cả trong thời chiến và thời bình nó vẫn luôn được giữ gìn nguyên vẹn, thiêng liêng không chỉ bộc lộ vẻ đẹp tinh thần của cả một cộng đồng dân tộc lớn mà đó là những nỗ lực trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc nhiều đời, là sự đoàn kết mạnh mẽ trong cộng đồng các dân tộc anh em.
5. Thuyết minh về lễ hội truyền thống dân tộc- lễ hội đua voi ở Tây Nguyên
Tây Nguyên một vùng đất hùng vĩ với những cao nguyên đất đỏ xếp tầng, được mẹ thiên nhiên ưu ái ban tặng cho những cánh rừng xanh thẳm bạt ngàn, những mảnh đất bazan màu mỡ, khí hậu quanh năm ôn hòa. Nơi đây quy tụ nhiều dân tộc anh em cùng nhau sinh sống, những con người thật thà chất phác mang đậm bản sắc của núi rừng cao nguyên.Có thể nói Tây Nguyên là cái nôi của những sử thi huyền thoại, là vùng đất giàu có với những truyền thống văn hóa độc đáo, đậm chất núi rừng linh thiêng.Đua voi là một trong những lễ hội cuốn hút, độc đáo nhất của đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên.
Lễ hội được tổ chức vào tháng ba âm lịch, cứ hai năm lại có một lần lễ hội như vậy. Người ta chọn mùa xuân là mùa tổ chức lễhội đua voi nhằm thể hiện mong muốn một khởi đầu năm mới, tốt đẹp, ấm no hạnh phúc cho người dân khắp các thôn bản, tạo nên một không khí tưng bừng, nhộn nhịp, làm say đắm bất kỳ những ai đã từng đặt chân đến nơi đây. Voi là con vật biểu tượng cho núi rừng Tây Nguyên, từ lâu đã được thuần hoá là vật nuôi rất có ích và chung sống thân thiện với con người. Chúng giúp người dân kéo gỗ, chở đồ, vận chuyển hàng hoá, và đặc biệt chúng còn được huấn luyện để biểu diễn trong các lễ hội, trong các sở thú. Voi là loài động vật to lớn nhưng hiền lành, thông minh và có khả năng ghi nhớ rất nhanh, chính vì lẽ đó mà chúng từ lâu trở thành người bạn thân tình, gắn bó với người dân Tây Nguyên cả trong chiến tranh và trong đời sống hàng ngày. Đây được coi là loài động vật linh thiêng và được nhân dân yêu quý, tôn kính như một biểu tượng mạnh mẽ của mảnh đất cao nguyên bạt ngàn nắng gió.
Bài văn Thuyết minh về lễ hội đua voi ở Tây Nguyên
Quả thật Tây Nguyên là một vùng đất có không khí thích hợp để tổ chức các lễ hội vui tươi.Lễ hội Đua Voi được tổ chức tại Đăk-Lăk nhằm tôn vinh truyền thống văn hoá, tinh thần thượng võ và tài nghệ cưỡi voi của đồng bào Tây Nguyên. Hội Đua Voi được tổ chức cùng với các lễ hội khác như: Lễ cúng bến nước, Lễ cúng sức khỏe cho Voi, Lễ Ăn Trâu mừng mùa (Lễ Đâm Trâu), Lễ cúng lúa mới (Lễ mừng mùa), Văn hóa cồng chiêng… Đồng bào tin vào một năm mới tràn đầy niềm vui, mùa màng bội thu, nhà nhà được ấm no hạnh phúc.
Hội Đua Voi được tổ chức rất hoành tráng nhộn nhịp nhưng chỉ kéo dài trong vòng một ngày duy nhất. Tuy nhiên công việc chuẩn bị đã diễn ra từ trước đó vài tháng, những con voi dự thi sẽ được chủ của chúng đưa tới những bãi cỏ xanh ngát, được ăn uống no nê đủ các loại trái cây, rau cỏ như: Đu đủ, mía,…Chúng không phải làm việc mà nghỉ ngơi để dưỡng sức thi đấu thế nên chú voi nào cũng béo tốt, tràn đầy năng lượng. Tới ngày hội, đàn voi nô nức tập trung về một bãi đất trống rộng lớn để thi tài, tại những bãi đất bằng phẳng các chú voi phải trải qua ba phần thi gay cấn: Voi chạy tốc độ, Voi bơi vượt sông Sêrêpốk, Voi đá bóng. Người dân khắp các tỉnh Tây Nguyên kéo đến để thưởng thức lễ hội, các bộ y phục sặc sỡ màu sắc, tiếng vỗ tay cổ vũ náo nhiệt, khiến cho lễ hội thêm phần náo nhiệt, rộn rã. Ngoài ra khi du khách đến tham quan được hoà vào không khí hội, còn được thưởng thức những món ăn đặc sản đậm đà hương vị núi rừng Tây Nguyên.
Hội Đua Voi bắt đầu bằng khi vị trọng tài thổi một tiếng tù vang vọng báo hiệu trận đua sắp bắt đầu, những chú voi thông minh, mạnh mẽ, dưới sự chỉ huy dẫn dắt của các chàng trai dũng cảm, khỏe mạnh bậc nhất từng buôn làng lần lượt tiến vào vạch xuất phát, từ từ quỳ bốn chân xuống, như một lời chào thân thiện dành cho những người cổ vũ. Thông thường một đội đua gồm hai chàng trai gọi là các Man-gát, mang trên mình những bộ quần áo thổ cẩm có màu sắc sặc sỡ, có thể cột thêm một dải vải màu để phân biệt các đội. Sau khi xong thủ tục chào hỏi, trọng tài lại thổi tiếp một hồi tù khác, hồi tù này dứt khoát và mạnh mẽ hơn nhiều, để bắt đầu cuộc đua, những chú voi tiến lên phía trước trong sự cổ vũ cuồng nhiệt của khán giả, tiếng gõ chiêng, tiếng reo hò vang dội như tăng thêm nhuệ khí cho từng vận động viên. Đàn voi cứ thế lao đi, chàng trai ngồi đầu dẫn voi, luôn cúi rạp mình áp sát vào lưng voi để ổn định cơ thể, tránh sức cản của không khí góp phần khiến voi chạy nhanh hơn. Đôi mắt lúc nào cũng thận trọng quan sát tứ phía và điều khiển chú voi bằng một thanhsắt nhọn dài khoảng 1 mét, mỗi khi voi chạy chậm lại họ lại dùng cây sắt đâm vào mông khiến voi đau, nó liền lồng lên và chạy nhanh hơn nữa. Nhưng không chỉ chạy nhanh là được, voi còn phải chạy đúng đường của mình, đây là nhiệm vụ của người ngồi phía sau, họ sẽ dùng một cái búa gọi là búa Kốc, nện vào mông voi để voi chạy thẳng hướng, tránh lấn sang làn của đội khác, theo đúng lộ trình đã vạch ra. Càng về gần đích, tiếng hò reo cổ vũ cùng tiếng chiêng, trống hòa nhịp gõ vang, rộn ràng náo nhiệt cả một vùng lại càng to, voi thấy thế lại càng hăng, cố sức phóng về đích. Hội đua kết thúc, các chú voi trở về buôn làng trong sự tự hào, kính trọng khôn xiết của người dân nơi đây.
Hội Đua Voi kết thúc buôn làng kéo nhau quây quần cùng nhauăn uống, vui chơi. Tiếng cồng chiêng vang lên nồng cháy, những chàng trai cô gái nắm tay nhau nhảy múa quanh quanh đống lửa sáng rực. Những cụ già say sưa trò truyện vui vẻ. Lễ hội dường như gắn kết con người lại với nhau, khiến họ trở nên gần gũi thân tình, mang một màu sắc tươi mới phủ lên vùng đất cao nguyên hùng vĩ.
Lễ hội Đua Voi từ lâu đã trở thành bản sắc văn hóa độc đáo của các dân tộc anh em trên vùng đất Tây nguyên đầy nắng và gió, chứa đựng màu sắc anh hùng thượng võ, lối sống mạnh mẽ của đồng bào nơi đây từ thuở xa xưa. Đến với Bản Đôn du khách sẽ được thoả sức thả hồn vào thiên nhiên núi rừng thơ mộng, được khám phá những nét văn hoá đặc sắc, độc đáo, được thưởng thức ẩm thực phong phú, đa dạng. Ngày nay lễ hội Đua Voi không còn chỉ gói gọn trong văn hoá buôn làng Bản Đôn mà đã được phát triển thành một lễ hội du lịch thú vị, hấp dẫn du khách gần xa.
——————————-HẾT———————————-
Trên đây chúng tôi đã cùng các em làm bài Thuyết minh về một lễ hội truyền thống dân tộc, để nắm vững kĩ năng viết bài thuyết minh, các em có thể tìm hiểu thêm một số bài văn đặc sắc khác như: Thuyết minh về danh lam thắng cảnh Chùa Hương, Thuyết minh về vườn quốc gia Phong Nha- Kẻ Bàng, Thuyết minh về phong tục cổ truyền ngày Tết, Thuyết minh về một Di Tích Lịch Sử Đền Hùng – Đất Tổ của con Rồng cháu Tiên.
Đăng bởi: THPT Ngô Thì Nhậm
Chuyên mục: Giáo Dục