Đề 1: Trong truyện Những đứa con trong gia đình, Nguyễn Thi có nêu lên quan niệm: Chuyện gia đình cũng dài như sông, mỗi thế hệ phải ghi vào một khúc. Rồi trăm con sông của gia đình lại đổ về một biển, mà biển thì rộng lắm. […] rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả nước ta”. Anh (chị) có cho rằng trong thiên truyện của Nguyễn Thi đã có một dòng sông truyền thống liên tục chảy từ những lớp người đi trước: tổ tiên, ông cha cho đến lớp người sau là chị em Chiến – Việt
Trả lời
Nguyễn Thi là nhà văn của người nông dân Nam Bộ. Dù là người con miền Bắc nhưng ông đã sống gần gũi và gắn bó với con người miền Nam. Do đó, những sáng tác của ông đều phản ánh khá chân thật và sinh động cuộc sống và tính cách của con người miền Nam – những con người hồn hậu, chân chất trong cuộc sống đời thường nhưng có lòng yêu nước thiết tha, lòng căm thù giặc sâu sắc, luôn giữ vững và phát huy truyền thống cách mạng, sẵn sàng chiến đấu và hi sinh cho đất nước. Một trong những tác phẩm tiêu biểu nói về vẻ đẹp của con người miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ là truyện ngắn Những đứa con trong gia đình. Trong truyện ngắn ông đã nêu lên quan niệm: Chuyện gia đình cũng dài như sông, mỗi thế hệ phải ghi vào một khúc. Rồi trăm con sông của gia đình lại đổ về một biển, mà biển thì rộng lắm. […] rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả nước ta” Câu chuyện được kể lại qua dòng hồi ức chập chờn đứt nối của nhân vật chính-Việt, trong cuộc chiến ác liệt tại một cánh rừng cao su, anh bị thương nặng và lạc cả đồng đội, rất chân thật xúc động, anh ngất lịm đi rồi lại tỉnh được sống với gia những kỷ niệm đáng nhớ khoảng thời gian còn bên gia đình (ông nội, ba má, chú Năm, chị Chiến…) cùng những niềm vui thời thơ ấu khiến anh quên đi cái đau, dường như tiếp thêm sức mạnh cho anh vượt qua cái chết. Câu chuyện gia đình của Việt cũng dài như một dòng sông, là một gia đình cách mạng điển hình hiếm gặp nơi miền Nam trong những ngày kháng chiến oanh liệt của dân tộc nói chung và chống Mĩ-Ngụy nói riêng. Mỗi thế hệ trong gia đình ấy như là một khúc sông nhỏ góp vào dòng sông truyền thống ấy làm nó như dài vô tận. Ở họ không chỉ là sự tiếp nối huyết thống đơn thuần mà như được ngấm máu cách mạng để tiếp nối truyền thống và“dường như họ sinh ra để đánh giặc”.Chiến tranh dữ dội và tàn khốc quá, bao nhiêu những con người ưu tú đã hy sinh, ngã xuống để bảo vệ cho nền hòa bình của dân tộc, gia đình Việt cũng không ngoại lệ.
Những lớp người đi trước là khúc sông trước của dòng sông truyền thống đó là ông bà, ba má và chú Năm của Việt. Họ đã tạo dựng con sông truyền thống để rồi Chiến và Việt tiếp nối và đi xa hơn nữa. Ông nội của Việt bị chánh tổng bắn chết, bà nội Việt bị lính huyện đánh đập, ba Việt đi bộ đội tầm vông thì bị chúng chặt đầu, còn má Việt – má Việt cũng là hình ảnh khúc sông truyền thống gia đình. Đây là hình ảnh một người mẹ không hề yếu đuối mà thật chắc khỏe về thể xác lẫn tinh thần. Hình như người mẹ ấy sinh ra để chống chọi với bao sóng gió của cuộc đời và trong chiến đấu. Nguyễn Thi đã miêu tả những nét tính cách ấy của người mẹ khá cụ thể: “Má bơi xuồng thiệt khỏe, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách mướt để lộ cái gáy đo đỏ và đôi vai lực lưỡng. Chiều về, xuồng còn giữa sông, má đã gọi: “Việt à, ra phụ má nghe con!”, xuồng cập bến, mặt má vẫn đỏ rực, cái nón rách đã ngả ra làm quạt, lưng áo bà ba đẫm mồ hôi đã đen lụi không còn thấy bạc nữa”.Ở má Việt, tình yêu chồng, lòng thương con, sự căm thù, lòng dũng cảm, ý thức đấu tranh như hòa quyện vào nhau. Điều đó đã thể hiện khá đầy đủ trong lời má Việt nói với Việt: “Tao dạn là nhờ ba mày. Ba mày bị Tây nó chặt đầu, tao cứ đi theo thằng xách đầu mà đòi. Đi từ ấp trong tới ấp ngoài, nó qua sông tao cũng qua sông, nó về quận tao cũng tới. Một tay tao bồng em mày, một tay tao cắp rổ. Chị hai mày đang nấu cơm, cũng mang cẻ đũa bếp chạy theo, tóc tai xuống mặt, chỉ ló có một con mắt ra nước mắt chảy ròng ròng. Mày với con Chiến thì chạy theo chị hai mày mà la: “Trả đầu ba! Trả đầu ba!”. Tao muốn là cho chị em bây ở nhà. Đi mình tao, tao chửi nó, nó có bắn thì cũng còn chị em bây trả thù cho ba mày. Mỗi lần nó bắn đùng đùng trên đầu, chị em bây lại níu chân tao. Lòng dạ tao đâu còn rảnh để mà sợ, mà khóc, chỉ thương con thôi”. Mất chồng, má xót xa lặng lẽ khóc trong đêm, nhớ lại những kĩ niệm với chồng từ lúc hai người mới quen nhau tới khi chồng chết. Rồi người mẹ ấy cũng trông cho con mau lớn để làm một cái gì đó vui lòng chồng và “dường như cả cuộc đời vất vả của má, mọi ý nghĩ đã trải qua một cách không hề sợ hãi đó, tất cả đều được gom lại và dồn vào trong ý nghĩ cuối cùng này”. Đau đớn xót xa nhưng người mẹ ấy không hề bi lụy, biến đau thương, căm thù thành ý thức đấu tranh và đã chết trong đấu tranh. Ở nhân vật này, nhà văn Nguyễn Thi đã khắc họa nổi bật hình tượng người phụ nữ miền Nam với đầy đủ những phẩm chất đạo đức tốt và anh hùng. Đó là tượng đài bất tử của người mẹ Việt Nam. Chính những đau thương mất mát ấy lại thể hiện tấm lòng yêu nước của gia đình Việt to lớn đến nhường nào. Ở họ, luôn sẵn sàng chiến đấu vì tổ quốc quên mình cho độc lập dân tộc.
Chú Năm của Việt là một nhân vật còn sống, là người mà Việt cà chị Chiến nương tựa vào, là người nông dân Nam Bộ hiền lành, từng làm cày thuê cuốc mướn gặp không ít đắng cay dồi dào kinh nghiệm sống. Đau thương hằn sâu từ cuộc đời gian khổ và với tư cách chứng nhân của tội ác của thằng Tây, thằng Mỹ và bọn tay sai phải chăng đã làm nên nét đa cảm trong gương mặt với đôi mắt lúc nào cũng mở to, mọng nước.Chất Nam bộ rặt trong con người ông thể hiện qua việc hay kể sự tích cho con cháu, và kết thúc câu chuyện thể nào cũng hò lên mấy câu. Chú Năm là một thứ gia phả sống luôn hướng về truyền thống, sống với truyền thống, đại diện cho truyền thống và lưu giữ truyền thống. Là người “Văn hay chữ tốt” được giao trọng trách gìn giữ cuốn sổ gia đình. Cuốn sổ ấy ghi lại chi tiết đầy đủ những thời khắc linh thiêng lập công của mỗi người trong gia đình, và nơi ghi những chứng cớ tội ác của kẻ thù đã gây ra vô vàn đau khổ cho đại gia đình, cùng quê hương.
Đến thế hệ anh hùng trẻ Chiến và Việt, mỗi người có một tính cách riêng,bởi sự khác nhau về tính cách con gái và con trai, một người là chị, một người là em. Nhưng ở họ vẫn tựu chung là những người con(cháu) vô cùng hiếu thảo, sống rất tình cảm, vì gia đình, nước nhà chịu nhiều đau thương quá lớn, sớm nuôi lòng căm thù giặc sâu sắc, mong muốn được cầm súng vùng lên trả thù. Hình ảnh má luôn hiện thân trong Chiến. Chú Năm cũng bảo Chiến giống y chang như má. Chiến có tính kiên nhẫn, cần mẫn chăm chỉ đã làm việc gì thì phải xong việc đó. Chiến đảm đang tháo vát. Trước ngày lên đường nhập ngũ, Chiến thu xếp mọi công việc trong nhà đâu vào đấy, viết thư cho chị Hai, gửi thằng út cho chú Năm nuôi, gửi mọi vật dụng của gia đình cho chú Năm giữ, cho xã mượn căn nhà làm lớp học, nhờ chi bộ giao ruộng cho bà con cấy, dành vườn mía để làm giỗ cho ba má. Những việc làm ấy của Chiến khiến cho chú Năm phải khâm phục: “Khôn! Việc nhà nó thu xếp được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế đặng bề nước non. Con nít chúng bay đánh giặc khôn hơn chú hồi trước”. Cũng có lúc Chiến rất trẻ con, như việc tranh công bắt ếch, tranh công bắn tàu Mĩ với Việt. Nhưng về cơ bản, Chiến vẫn nhớ mình là chị nên “bao giờ cũng nhường nhịn Việt. Sau này vết đạn bắn thằng giặc trên sông Định Thủy chị cũng nhường”. Chỉ mỗi việc ghi tên tòng quân là Chiến không nhường, vì đó là niềm khao khát được đi trả thù cho ba má. Chiến còn là một cô gái thích làm duyên, ngay cả khi ra trận, trong túi Chiến bao giờ cũng có một chiếc gương soi. Có thể thấy Chiến là một người con gái độ lượng, vị tha, nhẫn nại, đảm đang, tháo vát, tiêu biểu cho những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong thời kì chống Mĩ cứu nước. Chiến là hình ảnh kế thừa của người mẹ, lại tiếp khúc sông truyền thống của gia đình, không làm phụ lòng mẹ. Chiến đã tiến xa hơn một bước so với mẹ. Chiến được cầm súng đi đánh giặc, cái điều mà mẹ Chiến chưa có được.
Khác với Chiến khôn ngoan, già dặn trước tuổi, Việt là cậu con trai mới lớn lên do đó tính ngây thơ, trẻ con khá rõ. Việt hiếu thắng không chịu nhường nhịn chị. Mặt khác, Việt rất hiếu động theo bản tính con trai, thích bắt ếch, câu cá, bắn chim, “đi bộ cầm súng tự động…cái ná thun vẫn nằm gọn trong túi áo”. Việt vô tư, phó mặc cho chị mọi lo toan, thu xếp về việc nhà cửa. Chị bàn bạc chuyện gia đình, Việt chỉ ừ ào cho qua, vừa nghe vừa “chụp một con đom đóm trong lòng bàn tay rồi ngủ quên lúc nào không biết”. Ở chiến trường Việt vấn nghĩ về chị theo kiểu một đứa em đã quen dựa dẫm chị: “Phải có chị Chiến ở đây, chị sẽ bắt thế cho Việt”. Ngay cả tình thương của Việt với chị cũng theo kiểu trẻ con cho nên ở đơn vị không bao giờ Việt khai thật về chị với người khác. “Việt giấu chị như giấu của riêng vậy. Cậu ta sợ mất chị mà!”.Lúc nào Việt cũng cảm thấy mình trẻ con trước anh Tánh và anh Công: Đi chiến đấu không sợ chết, không sợ giặc, chỉ sợ ma: sau lúc bị ngất tỉnh dậy “rất thèm vào bếp lục cơm nguội” theo thói quen như còn ở nhà, gặp được đồng đội đi tìm thì Việt có vẻ “giống hệt thằng Út em…khóc đó rồi cười đó”.Lòng căm thù giặc đã dậy lên trong lòng Việt. Càng lớn lên ý thức và hành động của Việt càng chín chắn hơn. Việt đã cùng chị đánh địch trên sông Định Thủy, rồi lại cùng chị tranh nhau xin đi bộ đội. Ý thức đấu tranh quyết liệt đã thể hiện ở Việt ngay trong câu chuyện giữa hai chị em trong cái đêm mà cả hai đều được đi bộ đội. Khi Chiến nói với Việt: “Chú Năm nói mày với tao kì này là ra chân trời mặt biển, xa nhà thì ráng học chúng học bạn, thù cha mẹ chưa trả mà bỏ về là chú chặt đầu”, thì Việt trả lời ngay với chị: “Chị có bị chặt đầu thì chặt chừng nào tôi mới bị”.Câu nói ấy của Việt đã thể hiện một thái độ khá dứt khoát, một ý trí quyết ra đi trả thù cho ba má Việt. Và ngay sao khi vào bộ đội, tân binh Việt đã lập chiến công trong một trận đánh quyết liệt với quân thù. Việt đã diệt được một xe đầy Mĩ và bắn nhào một xe tăng. Việt bị thương ở hai mắt, không còn thấy được gì cả. Việt cảm thấy chân tay tê dại, khắp người nước hay máu không biết. Chỗ ướt, chỗ sũng, chỗ dẻo quẹo, chỗ đã khô cứng”, “người Việt khô khốc”, “chỗ nào đụng tới, ruồi cũng bay lên như vãi trấu… ”, thế mà Việt vẫn quyết bò đi tìm đồng đội “Việt cho mũi lê đi trước, rồi tới hai cái tay, hai cái chân nhức nhối cho nó đi cùng. Cái nào không chịu đi thì bắt nó phải đi”. Trong cơn mê Việt nhớ lại những gì đã xảy ra trong gia đình mình. Việt nhớ má, nhớ chú Năm, nhớ chị Chiến… tỉnh ra, Việt càng cảm thấy căm thù, càng có ý thức quyết tâm chiến đấu. Nghe tiếng máy bay và tiếng xe bọc thép của địch rú lên, Việt không hề run sợ và trong tư thế sẵn sàng chiến đấu: “Được, tao cứ nằm đây! Tao sẽ chờ mày! Trên trời có mày, dưới đất có mày, cả khu rừng này có còn mình tao cũng bắn được mày. Nghe súng nổ các anh sẽ tới đâm mày! Mày chỉ giỏi giết gia đình tao, còn đối với tao thì mày là thằng chạy”. Như vậy, là Việt đã đi xa hơn khúc sông truyền thống gia đình. Việt chủ động đi tìm giặc mà đánh. Việt chính là 1 hình tượng nhân vật điển hình cho tầng lớp thanh niên thời đánh Mỹ tham gia vào cuộc kháng chiến với tất cả nhiệt huyết và niềm hăng say của tuổi trẻ, làm nên khúc sông truyền thống dào dạt hơn, rộng lớn hơn trước khi đổ về biển cả.
Đề 2: Phân tích hình ảnh thơ mộng trữ tình của những dòng sông Việt Nam qua hai bài tùy bút Người lái đò sông Đà ( Nguyến Tuân) và Ai đã đặt tên cho dòng sông (Hoàng Phủ Ngọc Tường)
Trả lời
Việt Nam đẹp với hình ảnh những dòng sông xanh mát, chảy xuống tâm hồn con người những hình ảnh sinh động hấp dẫn nhẹ nhàng, nó mang một vẻ đẹp thanh tao thơ mộng. Qua hai tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân và Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường chúng ta có thể thấy vẻ đẹp của dòng sông Việt Nam mơ mộng và trữ tình đi sâu vào tâm hồn của mỗi con người. Hình ảnh dòng sông Việt Nam được hai tác giả miêu tả thật chi tiết và sinh động trong hai tác phẩm. Điểm chung mà hai tác giả này thể hiện đó là đều miêu tả vẻ đẹp của dòng sông thơ mộng, ở đó con người được sống và làm mát tâm hồn bởi vẻ đẹp say đắm lòng người. Vẻ đẹp của dòng sông quê hương được nhìn từ nhiều góc độ, đó là cách quan sát mà hai nhà văn đã sử dụng để nói về vẻ đẹp của chúng.
Đối với tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường thì vẻ đẹp dòng sông được phát hiện rất đa dạng. Có lúc trữ tình êm ả, hiền hòa như “một thiếu nữ dịu dàng, duyên dáng”; có lúc phóng khoáng và man dại, rầm rộ và mãnh liệt như một “bản trường ca của rừng già”. Có khi dịu dàng và trí tuệ như “người mẹ phù sa”; có khi biến ảo “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”; hoặc khi thì vui tươi, khi thì như một mặt hồ yên tĩnh v.v…với vẻ đẹp dịu dàng, mềm mại và uyển chuyển của nó. Tác giả đã ví sông Hương như “người tình dịu dàng và chung thủy của cố đô”. Không phải vô duyên vô cớ mà tác giả lại đi ví von so sánh đầy tính nghệ thuật như vậy. Sông Hương khi chảy về thành phố có sức hấp dẫn tuyệt vời đối với người đọc. Ở đây chúng ta nhận ra một lối viết nhẹ nhàng, tinh tế, rất mực tài hoa của tác giả. Ông vẽ lên vẻ đẹp của sông Hương không chỉ bằng ngôn ngữ mà còn bằng cả trái tim đầy tình yêu thương. Giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, sông Hương như “cô gái đẹp ngủ mơ màng” – một vẻ đẹp màu sắc của câu chuyện cổ tích tuyệt đẹp. Và sông hương bỗng “chuyển dòng liên tục” “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”, “trôi giữa hai dãy đồi sững sững như thành quách”. Một sự diễn tả quá trữ tình, quá độc đáo khiên ngưỡng đọc khó cưỡng lại được vẻ đẹp tuyệt vời này.Sông hương vừa mềm mại, vừa dịu dàng “mềm như tấm lụa”, có khi ánh lên những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Sự chuyển đổi màu sắc theo mùa, theo thời gian như thế này đã làm nên một nét đặc trưng cho những ai muốn ngắm nhìn sông hương thật lâu
Hoàng Phủ Ngọc Tường tả sông hương như vẽ, vẽ lên một bức tranh hoàn mĩ và tuyệt vời nhất về dòng sông huyền thoại này. Sông Hương tạo nên nét đẹp của đất cố đô Huế, ẩn mình trong trầm tích của nét văn hóa hàng nghìn năm lịch sử. Tất cả được miêu tả bằng một tình cảm thiết tha với Huế. Sức sống mãnh liệt, hoang dại, dịu dàng, đắm say, như ‘một bản trường ca của rừng già , rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn’. Khi chảy qua miền địa hình hiểm trở, sông Hương mang vẻ đẹp dữ dội: ‘mãnh liệt qua ghềnh thác, cuộn xoắn như cơn lốc xoáy vào đáy vực bí ẩn’, nhưng cũng có lúc lại ‘dịu dàng, đắm say giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng’. Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương như một ‘cô gái di gan, phóng khoáng và man dại’, bởi rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Dòng sông hương không chỉ thể hiện vẻ đẹp nhẹ nhàng, mà đây còn là vẻ đẹp của sự cố kính lâu đời, nó là những vẻ đẹp kì dị huyền bí mà còn là chứng nhân lịch sử, hàng ngàn năm, nó là minh chứng cho những năm tháng đấu tranh của dân tộc Việt Nam, những điều đó đã tạo nên một vẻ đẹp lịch sử cho dòng sông Hương.
Nếu như sông Hương được miêu tả với những vẻ đẹp huyền bí, cổ kính và nhẹ nhàng thì dòng sông Đà lại được Nguyễn Tuân miêu tả với hai nét đẹp tưởng chừng như đối lập nhưng lại hòa mình trong cùng một sinh thể, đó là hai nét tính cách của dòng sông, lúc hoang dại, hung bạo nhưng cũng không kém phần thơ mộng trữ tình. Sự hùng vĩ của sông Đà không chỉ có thác mà còn ở cảnh đá bờ sông. Đâu chỉ hùng vĩ, Sông Đà còn vô cùng hung bạo, dữ dằn. Ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng dài hàng ngàn cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng muốn lấy mạng những người lái đò qua đây. Với những điệp từ, câu văn như dậy sóng, dậy gió. Diện mạo của sông Đà thật gớm ghiếc hung dữ chằng khác nào tên lưu manh, côn đò, giang hồ. Không chỉ mang vẻ đẹp hùng vĩ, hung bạo mà con sông Đà còn mang những nét đẹp trữ tình. Nhà văn đã dành những trang viết thấm đẫm chất trữ tình để miêu tả vẻ đẹp dịu dàng của dòng sông mang trong lòng những huyền sử thuở khai thiên lập địa của cha ông. “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân.”, “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích…”, “mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”…
Đó là thời điểm cho câu chữ Nguyễn Tuân lai láng chất thơ ca ngợi vẻ đẹp của dòng sông, bằng cái nhìn và tình cảm của một người tự nhận sông Đà như một “cố nhân”. Không gian lắng đọng trong vẻ đẹp của “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm sông Đà”. Vẻ đẹp ấy như trang nghiêm trong mạch Đường thi cổ điển, vừa lắng đọng hoài vọng về một thuở Lý Trần Lê, vừa bâng khuâng cảm giác về sự sống nảy lộc đâm chồi : “Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tíchtuổi xưa”. Nhà văn đã để cho dòng cảm xúc dào dạt thốt lên thành lời đối thoại im lặng với thiên nhiên, bờ bãi ven sông, dường như con người muốn hoà vào cùng cảnh vật, để chiêm ngưỡng vẻ đẹp đầy sức cuốn hút của dòng sông. Ngòi bút nhà văn đến lúc này mới thật sự tung hoành trong sự say sưa khám phá cội nguồn, kể về lịch sử dòng sông gắn với cuộc sống và con người Tây Bắc, những người đã đón nhận những tặng vật hào phóng của sông Đà. Cảm xúc từ thực tại của Nguyễn Tuân còn khơi nguồn cho những mơ ước mang tính dự báo về tương lai, biến sức mạnh của dòng sông trái tính trái nết thành nguồn thủy điện dồi dào. Rõ ràng, thực tại cuộc sống mới đã giúp cho Nguyễn Tuân có những dự cảm chính xác, có niềm tin vững chắc vào những con người đang xây dựng một chế độ mới, đem lại sinh khí mới cho cuộc sống ở sông Đà.
Như vậy, Có thể thấy vẻ đẹp của dòng sông Việt Nam đã được khái quát hết trong hai con sông tiêu biểu trên và đã được tác giả khắc họa, so sánh với những vẻ đẹp của sự trù phú, của những vẻ đẹp linh thiêng, dòng sông xanh mát chảy trong tâm hồn của người con đất Việt, những hình ảnh đó đều sinh động, nhẹ nhàng. Nó gợi lại cho người đọc một cảm giác gần gũi hơn với thiên nhiên.
Đề 3: Cảm nhận về một truyện ngắn trong nền văn xuôi hiện đại mà anh (chị) thích nhất.
Trả lời
Tô Hoài là nhà văn lớn của văn học Việt Nam. Ông đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam hiện đại một khối lượng tác phẩm lớn.Vợ chồng A Phủ là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách Tô Hoài sau Cách mạng tháng Tám. Hiện thực và nhân đạo là nội dung nổi bật của thiên truyện này. Nội dung ấy lại được thể hiện bằng giọng văn trần thuật, miêu tả và thể hiện tâm trạng, tính cách nhân vật hết sức tinh vi và sâu sắc.
Về nội dung, tác phẩm Vợ chồng A Phủ lấy ấn tượng bởi cách mở đầu bằng việc giới thiệu nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịch lý. “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa . Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi” . Lẽ ra Mỵ là một người vợ của một nhà giàu có thì phải có cuộc sống sung túc nhưng qua cách giới thiệu tạo ra những đối nghịch về một cô gái âm thầm lẻ loi, âm thầm như lẫn vào các vật vô tri: cái quay sợi, tảng đá, tàu ngựa; cô gái là con dâu nhà thống lí quyền thế, giàu có nhưng sao mặt lúc nào “buồn rười rượi”. Từ những miêu tả đó khuôn mặt đó gợi ra một số phận đau khổ, bất hạnh nhưng cũng ngầm ẩn một sức mạnh tiềm tàng. Mị trước đó vốn là một người con gái đẹp ,có khả năng âm nhạc, cô giỏi sáo và giỏi uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”. Là một cô gái nhạy cảm giàu khát khao yêu thương, được yêu, nhưng vì hoàn cảnh, Mị buộc phải bán mình cho nhà thống lí về làm vợ của A Sử và từ đó phải chịu một cuộc đời bạc mệnh. Với nhân vật Mị, số phận và tâm lý được ông phác họa như đồ thị hình sin, đi xuống để tạo sức nén cho lần sau vút cao và giải phóng chính mình. Mị từ một cô gái hồn nhiên, yêu đời bỗng trở thành nô lệ, sống với người chồng không yêu mình, bị bóc lột cả về thể xác lẫn tinh thần khiến tâm hồn người thiếu nữ bị tê liệt, phải sống như cái xác không hồn, như con rùa lầm lũi trong xó cửa… tưởng chừng không bao giờ thoát ra được. Tâm hồn Mị được thức tỉnh trong đêm tình mùa xuân, nảy sinh hành động cắt dây trói cứu A Phủ, giải phóng cuộc đời khỏi ách thống trị, khỏi sự khổ đau và mở ra tương lai cho chính mình
Viết về A Phủ, Tô Hoài thương cảm cho cuộc đời của cậu bé mồ côi bị bán lấy thóc. A Phủ bị quỳ, bị đánh chửi suốt ngày mà vẫn phải câm như thóc; phải phục vụ cho kẻ đã tra tấn, lăng nhục mình… Có lẽ viết về nỗi đau, nỗi bất hạnh của hai nhân vật này, ngòi bút Tô Hoài thấm ướt trang giấy, ông đã gieo vào lòng người đọc niềm thương cảm trước số phận con người. Ngòi bút của nhà văn đi sâu khám phá và sâu bên trong thế giới nội tâm nhân vật, ông hiểu nỗi niềm và trân trọng những khát vọng của họ. Miêu tả quá trình diễn biến nội tâm nhân vật tự nhiên và sống động, mở ra cho họ lối thoát.
Từ nội dung tác phẩm, ta thấy được tấm lòng yêu thương con người của nhà văn qua việc lên án, phê phán hiện thực xã hội lúc bấy giờ, tố cáo sự tàn bạo của giai cấp thống trị miền núi đồng thời cảm thông với nỗi bất hạnh của đồng bào dân tộc thiểu số miền núi Tây Bắc; nhà văn trân trọng những khát vọng và mở ra cho họ con đường giải phóng bản thân, giải phóng đồng bào. Tác phẩm vừa mang giá trị hiện thực sâu sắc và giá trị nhân đạo cao cả.Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ không chỉ vạch trần tội ác của bọn phong kiến miền núi mà còn phơi bày tội ác của bọn thực dân Pháp lâu nay đang chiếm đóng Tây Bắc..không chỉ dưng lại với giá trị hiện thực, mà còn ẩn chứa những giá trị nhân đạo sâu sắc. Từ chính niềm cảm thông sâu sắc đối vối nỗi đau của con người,sự trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn con người và lòng tin vào khả năng vươn dậy của họ. Và trong tác phẩm chủ nghĩa nhân đạo mới không chỉ yêu thương, đồng cảm với những nỗi khổ của con người mà còn hướng tới, nhằm giải phóng cho con người khỏi mọi xiềng xích áp bức khổ ,xây dựng cuộc sống hạnh phúc cho mình. Cách kết truyện khi Mị và A phủ tháo chạy,đi tìm miền đất mới .. là một trong số những nét tiêu biểu này.
Về nghệ thuật, nhà văn Tô Hoài đã viết lên những trang văn sinh động trên vốn hiểu biết văn hóa sâu rộng về đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Bắc bằng lối kể truyện lôi cuốn, miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật tinh tế với cách dựng cảnh sinh động, ngôn ngữ giàu chất thơ. Thành công trước hết của tác phẩm là nghệ thuật xây dựng nhân vật. Với nhân vật A Phủ, Tô Hoài làm đậm thêm bức tranh hiện thực cuộc sống thời bấy giờ. A Phủ là đứa bé mồ côi phải lang bạt kiếm sống nuôi thân và khi lớn lên trở thành nô lệ nhà thống lí vì đánh lại con quan. Với nhân vật Mị, tác giả sử dụng thủ pháp tương phản để nói lên mâu thuẫn giữa hoàn cảnh và số phận, giữa ngoại hình với nội tâm và sự phát triển tính cách nhân vật. Tô Hoài có bút pháp miêu tả tâm lý của nhân vật tinh tế sắc sảo, những đoạn văn miêu tả diễn biến bên trong tâm hồn Mị sự thức tỉnh lòng ham sống, khát vọng hạnh phúc và tình yêu của Mị là những trang viết đặc sắc chứng tỏ được khả năng hóa thân của nhà văn vào chiều sâu tâm trangh của nhân vật. Không chỉ tài tình ở nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật. Tô Hoài còn tài tình khi miêu tả phong tục tập quán Tây Bắc và bức tranh phong cảnh thiên nhiên sinh động, giàu chất thơ như phong tục xử kiện, uống máu ăn thề, ném Pao, cướp vợ. Nghệ thuật miêu tả tự nhiên,sinh động hấp dẫn. Cách dẫn dắt khéo léo tự nhiên. Giọng điệu trần thuật của tác giả hòa vào những giọng độc thoại nội tâm. Ngôn ngữ kể chuyện của tác giả mang đậm sắc thái ngôn ngữ miền núi.
Như vậy, qua tác phẩm Vợ chồng A Phủ , tác giả đã góp phần tái hiện một cách chân thực và sâu sắc những giá tri về cuộc sống, những triết lí sống nhân văn, những sụ cảm thông của chính tác giả với đứa con tinh thần của mình.Qua tác phẩm, Tô Hoài đã lên án những thế lực phong kiến miền núi, thế lực thực dân xâm lược; và ông đặc biệt thông cảm sâu sắc với số phận của người nông dân miền núi đồng thời khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của họ.