Xu thế đô thị hoá trên toàn thế giới sẽ dẫn tới sự hình thành các Siêu đô thị với dân số trung bình trên 4 triệu người. Hiện nay, trên thế giới có 20 siêu độ thị với dân số trên 10 triệu người, trong đó có 11 ở châu Á, 7 ở châu Mỹ và 2 ở châu Phi. Khu vực châu Á- Thái Bình Dương hiện nay đã có 18 thành phố trên 4 triệu dân, con số này sẽ tăng lên 52 vào năm 2050.
Vậy Siêu đô thị là gì? Mời các em cùng thầy cô trường THPT theo dõi trong bài học dưới đây.
Siêu đô thị là gì?
Siêu đô thị là một thuật ngữ để chỉ các khu vực đô thị có dân số hơn 10 triệu. Một số tài liệu cũng định nghĩa một siêu đô thị là khu đô thị có mật độ tối thiểu 2000 người/km2. Một siêu đô thị có thể là một vùng đô thị biệt lập hoặc hai hay nhiều đô thị nằm gần nhau.
- Nhiều đô thị phát triển nhanh chóng tạo thành các siêu đô thị, nhất là ở các nước đang phát triển. Siêu đô thị tập trung nhiều nhất ở châu Á.
- Hai siêu đô thị đầu tiên trên thế giới là Luân Đôn và New York
- Hậu quả nghiêm trọng cho môi trường, sức khỏe, giao thông… của người dân đô thị.
- Biện pháp: Quy hoạch lại đô thị, tích cực phát triển kinh tế công nhiệp và dịch vụ…
Năm 2000 có 18 siêu đô thị, trong đó có Mumbai, Tokyo, New York, và thủ đô Mexico City mỗi siêu đô thị có 10 triệu dân. Riêng khu vực Tokyo mở rộng (bao gồm Chiba, Kanagawa, Saitama, và Tokyo) đã có tới hơn 35 triệu, lớn hơn dân số của Canada.
Lịch sử hình thành siêu đô thị
Năm 1800, chỉ 3% dân số thế giới là dân thành thị. Tới cuối thế kỷ 20, con số đã nhảy vọt lên 47%. Thành phố New York qua mặt Luân Đôn trở thành đô thị đông dân nhất trên thế giới vào đầu thập niên 1920, và vùng đô thị của nó vượt mốc 10 triệu người vào đầu thập niên 1930 để trở thành siêu đô thị đầu tiên trong lịch sử loài người. Năm 1950, có 83 thành phố có số dân trên một triệu; tới năm 2007, con số đã là 468. Cứ đà này, dân số thành thị sẽ gấp đôi cứ sau 38 năm. Liên hợp quốc dự báo rằng dân số thành thị thế giới hiện nay là 3,2 tỷ có thể sẽ tăng lên gần 5 tỷ vào năm 2030, và cứ 5 người thì có ba người sống ở thành phố.
Sự gia tăng này sẽ chủ yếu diễn ra ở các châu lục kém phát triển nhất như châu Á và châu Phi. Các khảo sát cho thấy toàn bộ sự gia tăng dân số thành thị trong 25 năm tới sẽ chỉ diễn ra ở các nước đang phát triển.[4] Một tỷ người, khoảng 1/6 dân số thế giới, hiện đang sống trong các khu ngoại ô tồi tàn. Ở nhiều nước kém phát triển, các khu ổ chuột đông đúc là nơi có tỷ lệ bệnh tật cao nhất do điều kiện vệ sinh thấp, suy dinh dưỡng và thiếu dịch vụ y tế. Tới năm 2030, ước tính sẽ có hơn 2 tỷ người sống trong các khu ổ chuột đó. Khoảng hơn 90% dân số đô thị của Ethiopia, Malawi và Uganda (ba trong số các nước có tỷ lệ dân nông thôn cao nhất) đang sống ở các khu ổ chuột.
Theo tạp chí Kinh tế Viễn Đông (Far Eastern Economic Review) tới năm 2025 chỉ riêng châu Á sẽ có ít nhất 10 siêu đô thị là Mumbai (33 triệu); Thượng Hải (27 triệu); Karachi, Pakistan (26,6 triệu); Dhaka, Bangladesh (26 triệu) và Jakarta, Indonesia (24,9 triệu). Lagos, Nigeria đã có dân số tăng từ 300.000 người năm 1950 tới khoảng 15 triệu hiện nay, và chính quyền ước tính con số có thể nhảy lên 25 triệu vào năm 2015.
Sự phát triển của các siêu đô thị trên thế giới
Trong suốt gần 1000 năm, Rô-ma là thành phố lớn nhất, giàu có nhất và có tầm quan trọng về chính trị nhất ở châu Âu. Dân số Rô-ma vượt qua con số một triệu vào cuối thế kỷ 1 TCN. Dân số của nó đã giảm xuống còn 20.000 vào đầu thời kỳ Trung đại, và cơ sở hạ tầng của thành phố chỉ còn một số tòa nhà còn có người cư ngụ ở giữa những đóng đổ nát và cây cỏ.
Baghdad gần như là thành phố lớn nhất thế giới ngay sau thời kỳ thành lập vào năm 762 SCN cho tới tận những năm 930. Vài số liệu ước tính cho thấy vào thời điểm thịnh vượng nhất thủ đô của Đế chế Hồi giáo có tới hơn một triệu dân. Các thành phố cổ của Trung Quốc cũng trải qua những thời kỳ bùng nổ dân số khi kinh tế thịnh vượng.
Khu vực xung quanh đền Angkor, thủ đô một thời của Đế chế Khmer hùng mạnh giữa thế kỷ 9 và 15, có dân số lên tới hơn một triệu.
Năm 1999, thành phố New York là khu đô thị duy nhất có dân số hơn 10 triệu. Các nhà địa lý đã đưa ra con số 25 thành phố như vậy vào thời điểm tháng 110 năm 2005[13], so với 19ẻ vào năm 2004 và 9 vào năm 1985. Số lượng siêu đô thị tăng nhanh chóng khi mà tỷ lệ dân thành thị ở Bắc Mỹ và Tây Âu tăng lên 75-85%. Thống kê năm 1990 cho thấy lần đầu tiên trong lịch sử đại bộ phận dân chúng Mỹ sống trong các thành phố lớn hơn một triệu dân.
Những năm 2000, siêu đô thị lớn nhất là khu vực Tokyo mở rộng. Dân số ở khu đô thị này bao gồm cả Yokohama và Kawasaki, với tổng số ước tính là 35-36 triệu người. Sai số này là do sự không thống nhất về khái niệm khu đô thị và những vùng xung quanh. Trong khi các thành phố Tokyo, Chiba, Kanagawa, và Saitama thường được bao gồm trong thông tin thống kê, Tổng cục thống kê Nhật Bản chỉ tính khu vực có bán kính 50 km xung quanh Cơ quan Chính phủ ở Shinjuku. Điều này đã dẫn đến một con số nhỏ hơn. Một vấn đề đặc trưng của siêu đô thị là sự khó khăn trong việc xác định các giới hạn ngoài và ước tính tính xác dân số.
Danh sách các siêu đô thị trên thế giới
Dưới đây là danh sách 25 siêu đô thị lớn nhất tính đến thời điểm bài viết xuất bản.
Xếp hạng Siêu đô thị Quốc gia Châu lục Dân số Tăng hàng năm 1 Tokyo Nhật Bản Châu Á 34,000,000 0.60% 2 Seoul Hàn Quốc Châu Á 24,200,000 1.40% 3 Mexico City México Bắc Mỹ 23,400,000 2.00% 4 Delhi Ấn Độ Châu Á 23,200,000 4.60% 5 Mumbai (Bombay) Ấn Độ Châu Á 22,800,000 2.90% 6 New York City Hoa Kỳ Bắc Mỹ 22,200,000 0.30% 7 São Paulo Brasil Nam Mỹ 20,900,000 1.40% 8 Manila [14] Philippines Châu Á 19,600,000 2.50% 9 Thượng Hải Trung Quốc Châu Á 18,400,000 2.20% 10 Los Angeles Hoa Kỳ Bắc Mỹ 17,900,000 1.10% 11 Osaka Nhật Bản Châu Á 16,800,000 0.15% 12 Kolkata Ấn Độ Châu Á 16,300,000 2.00% 13 Karachi Pakistan Châu Á 16,200,000 4.90% 14 Jakarta Indonesia Châu Á 15,400,000 2.00% 15 Cairo Ai Cập Châu Phi 15,200,000 2.60% 16 Moskva Nga Châu Âu 13,600,000 0.20% 16 Bắc Kinh Trung Quốc Châu Á 13,600,000 2.70% 16 Dhaka Bangladesh Châu Á 13,600,000 4.10% 17 Buenos Aires Argentina Nam Mỹ 13,300,000 1.00% 18 Istanbul Thổ Nhĩ Kỳ Châu Âu & Châu Á 12,800,000 2.80% 19 Tehran Iran Châu Á 12,800,000 2.60% 20 Rio de Janeiro Brasil Nam Mỹ 12,600,000 1.00% 21 London Anh Quốc Châu Âu 12,400,000 0.70% 22 Lagos Nigeria Châu Phi 11,800,000 3.20%
Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam – Siêu đô thị hiện đại trong tương lai
TP.HCM mang dáng dấp của một siêu đô thị và đã được định hướng trở thành một siêu đô thị trong tương lai. Nhìn một cách tổng quan, TP.HCM thực sự có tiềm lực về quy mô dân số, thị trường và vị trí. Khi mà Bangkok còn chưa được nhiều người biết đến trên bản đồ Châu Á thì TP.HCM được gọi là “Hòn ngọc Viễn Đông”. Nhưng cho đến đầu thập niên 1990, thành phố được nhận định tụt hậu khoảng 20 năm và cho đến hiện tại, TP.HCM vẫn có khoảng cách khá xa so với Bangkok.
Hiện tại, nếu so sánh với các siêu đô thị trong khu vực như Băngkok, Thượng Hải, Singapore hay Seoul… khả năng rút ngắn khoảng cách hiện nay của TP.HCM là không cao. Thượng Hải (Trung Quốc), khá giống với TP.HCM. Nếu TP.HCM có sông Sài Gòn thì Thượng Hải có sông Hoàng Phố. Tương ứng với khu trung tâm của TP.HCM là khu phố Tây của Thượng Hải (phía tây sông Hoàng Phố) còn khu phố Đông của Thượng Hải (phía đông sông Hoàng Phố) tương ứng với Thủ Thiêm.
Ngày nay, hai bên bờ sông Hoàng Phố là hai hình ảnh hoàn toàn khác nhau, một bên đậm dấu ấn lịch sử, được bảo tồn hầu như nguyên vẹn, còn bên bờ Đông là một khu phát triển rất hiện đại, điều này khiến Thượng Hải trở thành một thành phố thú vị hàng đầu ở Châu Á. Mô hình của Thượng Hải từng được TP.HCM quan tâm và từ năm 2003, thành phố đã cử các đoàn cán bộ sang Thượng Hải học hỏi kinh nghiệm, nhưng dường như không có ứng dụng nào. Đến nay, hệ thống hạ tầng TP.HCM đã có những thay đổi tích cực, đang dần được cải thiện và hiện đại hóa. Tuy nhiên, sau hơn 2 thập kỷ nỗ lực xây dựng, khi Thượng Hải đã có hơn 600km tàu điện ngầm, đến năm 2021, TP.HCM mới chỉ có thể có 20km đầu tiên. Dù TP.HCM có nhu cầu về cơ sở hạ tầng rất lớn, nhất là giao thông, nhưng cả vùng vẫn chưa nhận được nhiều sự đầu tư…
TP.HCM nhất định phải bứt phá mới có thể đuổi kịp được các thành phố lớn trong khu vực, nhưng bứt phá bằng cách nào và như thế nào? Có lẽ việc đầu tiên chính là phải xác định đối thủ cạnh tranh là các siêu đô thị trong khu vực, nhất là phải nhận được sự hỗ trợ rất lớn từ các địa phương lân cận như Bình Dương, Đồng Nai. Việc xác định ở tầm tư duy chiến lược quốc gia là cuộc cạnh tranh của các siêu đô thị lớn để đầu tư nguồn lực. Nếu ở nông thôn cần đầu tư vào an sinh xã hội, giáo dục, còn các cơ sở kinh tế thì phải tập trung vào siêu đô thị, trong đó đứng đầu là thành phố, từ đó có cơ chế phân bổ ngân sách hợp lý, xây dựng cơ sở hạ tầng cho thành phố và kết nối với khu vực lân cận từ miền Tây, Đông Nam Bộ nhằm tạo ra tính liên kết vùng.
TP.HCM cũng cần xác định trở thành trung tâm dịch vụ có sức cạnh tranh toàn cầu như nơi đặt các trụ sở quốc tế và phối hợp hoạt động của các công ty hoàn cầu; trung tâm dịch vụ tài chính; trung tâm nghiên cứu và phát triển phần mềm; trung tâm nghiên cứu về khoa học đời sống kết hợp với nghiên cứu thử nghiệm; trung tâm dịch vụ chia sẻ cung cấp dịch vụ cho các công ty toàn cầu như tài chính hỗ trợ khách hàng nguồn nhân lực và công nghệ thông tin…
Các nhóm dịch vụ cơ bản này được dựa vào 9 ngành dịch vụ mà thành phố đã xác định. Cùng với đó, bản thân thành phố cũng phải tự năng động nhiều hơn nữa.
Nhìn một cách khách quan, TP.HCM có đủ nguồn lực, quy mô thị trường, vị trí và các vấn đề liên quan không thua kém siêu đô thị lớn nào, nếu được đầu tư đúng hướng, đúng tầm sẽ có cơ hội theo kịp những thành phố khác trên thế giới. Trở thành siêu đô thị, TP.HCM sẽ là trung tâm văn hóa, tài chính, giáo dục của đất nước. Thành phố sẽ đưa ra những chính sách, phương pháp quản lý mới để trở thành khu vực trọng điểm quốc gia. Đã đến lúc cần có những quyết sách quan trọng để những nơi có tiềm năng như TP.HCM có thể phát huy một cách tốt nhất, nhằm đưa Việt Nam sớm đạt được mục tiêu dân giàu nước mạnh. Và việc cần làm ngay là một cơ chế tự chủ gắn với việc tập trung nguồn lực cần thiết để TP.HCM phát triển nhanh, mạnh hơn nữa.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, với bài học thực tế từ các siêu đô thị đi trước, về hệ lụy và hậu quả của đô thị hóa. TP.HCM cần có những giải pháp để xây dựng một thành phố thoải mái để sống và làm việc, kiểm soát tốt vấn đề dân số, không ô nhiễm, cung cấp nhiều cơ hội có thể giúp ích cho tầng lớp nghèo để không có sự khác biệt quá lớn giữa các thành phần xã hội. Đặc biệt, cần quan tâm nhiều hơn nữa tới môi trường sinh thái, mức độ thân thiện và hài hòa với môi trường sinh thái luôn coi là tiêu chuẩn phải đáp ứng, tiêu chí phải tuân thủ và mục tiêu phải đạt được. Hướng đến xây dựng mục tiêu cuối cùng là một thành phố thịnh vượng và phát triển bền vững.
Đăng bởi: THPT Ngô Thì Nhậm
Chuyên mục: Tổng hợp