Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em lớp 6 hay nhất bao gồm dàn ý cùng 22 bài văn mẫu do các THPT Ngô Thì Nhậm biên soạn và tổng hợp sẽ giúp các em học sinh có nhiều ý tưởng mới để hoàn thiện bài tập làm văn văn kể chuyện theo văn phong riêng của mình thêm sinh động, cuốn hút nhất.
Đề bài: Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em.
Thánh Gióng là một trong những truyện truyền thuyết nổi tiếng của Văn học dân gian Việt Nam. Những bài văn mẫu Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em dưới đây được kể với lời văn truyền cảm, gây cấn, thu hút người đọc. Mời các em học sinh và bạn đọc tham khảo
Dàn ý kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em lớp 6 chi tiết
I. Mở bài
Giới thiệu về truyền thuyết Thánh Gióng.
II. Thân bài
1. Sự ra đời kì lạ của Thánh Gióng
– Đời Vua Hùng thứ sáu, ở làng Gióng, có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn nổi tiếng là sống phúc đức nhưng vẫn chưa có một mụn con.
– Một hôm, bà lão đi ra đồng trông thấy một bàn chân to, liền ướm thử vào để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà lão mang thai, sau mười hai tháng thì sinh ra một câu bé.
– Cậu bé lên ba tuổi mà vẫn không biết nói, biết cười, đặt đâu thì nằm đấy.
=> Sự ra đời không giống với bất kỳ đứa trẻ bình thường nào, trái với quy luật của tự nhiên. Điều đó như một lời báo hiệu cuộc đời phi thường của cậu bé làng Gióng.
2. Sự sinh trưởng phi thường của Gióng
– Bấy giờ có giặc Ân xâm lược nước ta, nhà vua bèn sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước.
– Cậu bé nghe tiếng của sứ giả thì liền cất tiếng nói đầu tiên: “Mẹ mời sứ giả vào đây”.
– Gióng yêu cầu sứ giả về nói với nhà vua chuẩn bị “một con ngựa sắt, một chiếc roi sắt và một tấm áo giáp sắt” với lời hứa sẽ phá tan lũ giặc này.
=> Câu nói đầu tiên là câu nói với lòng mong muốn xin đi đánh giặc cứu nước cứu dân. Câu nói mang tấm lòng yêu nước của một cậu bé mới ba tuổi nhưng đã có trách nhiệm với đất nước nhân dân.
– Từ khi gặp sứ giả, Gióng lớn nhanh như thổi: “Cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc xong đã căng đứt chỉ”.
– Hai vợ chồng làm bao nhiêu không đủ, phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Cả làng vui lòng góp gạo nuôi cậu bé, ai cũng mong cậu giết giặc cứu nước.
=> Sức mạnh của tinh thần yêu nước, tinh thần đoàn kết của nhân dân ta. Gióng lớn lên trong vòng tay chăm sóc nuôi nấng của nhân dân.
3. Gióng đánh giặc và sự ra đi
a. Gióng đánh giặc:
– Giặc đến gần bờ cõi, chàng Gióng vươn vai trở thành tráng sĩ, mình cao hơn trượng, oai phong lẫm liệt.
– Chàng Gióng chuẩn bị ra trận:
- Mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên ngựa.
- Thúc ngựa phi thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ.
- Roi sắt gãy, Gióng nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ và chạy trốn .
=> Hình ảnh một con người oai phong, lẫm liệt, tràn đầy sức mạnh.
=> Đúng với sự ra đời kì lạ đã dự báo trước về cuộc đời của một con người phi thường, chàng Gióng chính là biểu tượng cho sức mạnh của dân tộc Việt Nam.
b. Sự ra đi của Gióng:
– Thánh Gióng một mình một ngựa, lên đỉnh núi, cởi áo giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa bay lên trời.
=> Con người phi thường nên sự ra đi cũng trở nên phi thường. Thánh Gióng đã trở về với cõi bất tử. Đó chính là lòng tôn kính mà nhân dân ta dành cho một con người có công với đất nước.
4. Sự tưởng nhớ công ơn Thánh Gióng, tương truyền về làng Gióng
– Vua nhớ công ơn phong là Phù Đổng Thiên Vương, và lập đền thờ ở quê nhà, nay là làng Phù Đổng, tục gọi là làng Gióng.
– Dấu tích còn lại ngày nay: những bụi tre ngà ở huyện Gia Bình vì ngựa phun mới vàng óng như thế, những vết chân ngựa thành những ao hồ liên tiếp, ngựa thét ra lửa thiêu cháy một làng gọi là làng Cháy…
=> Niềm tin bất diệt của nhân dân vào sức mạnh thần kì của dân tộc.
III. Kết bài
Khẳng định ý nghĩa của truyền thuyết Thánh Gióng.
Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em – Mẫu 1
Kể lại truyền thuyết Thánh Gióng bằng sự tưởng tượng sáng tạo của em
Trong chương trình Văn học lớp 6, em đã được học rất nhiều chuyên cổ tích và truyền thuyết hay. Nhưng em thích nhất là truyện truyền thuyết Thánh Gióng. Câu chuyện đã kể về một người anh hùng đánh giặc giữ nước.
Đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão nghèo. Họ rất chăm chỉ làm ăn nhưng lại hiếm con. Tuổi đã cao mà vẫn chưa có được một mụn con. Một hôm, bà vợ đi ra đồng, nhìn thấy một vết chân to, bà bèn đặt chân mình vào ướm thử. Nào ngờ, về nhà bà thụ thai. Đến tháng thứ mười hai, bà sinh được một cậu bé mặt mũi khôi ngô, tuấn tú. Hai vợ chồng vui mừng, đặt tên đứa bé là Gióng. Nhưng niềm vui của ông bà trở thành nỗi lo khi thấy Gióng lên ba tuổi mà vẫn chưa biết nói, biết cười, đặt đâu nằm đó.
Bấy giờ có giặc đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Vua vô cùng lo lắng, cho sứ giả đi khắp nơi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Vừa nghe thấy tiếng sứ giả loa truyền, chú bé Gióng bỗng cất tiếng nói đòi mẹ cho gọi sứ giả vào gặp. Mẹ Gióng thấy con mình cất tiếng nói thì vô cùng mừng rỡ, chạy đi mời sứ giả. Khi gặp sứ giả, Gióng bèn bảo sứ giả về tâu vua, làm cho một áo giáp sắt, một con ngựa sắt và một cái roi sắt. Nhà vua mừng rỡ, truyền cho thợ làm gấp ngày đêm.
Kỳ lạ hơn, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé Gióng lớn nhanh như thổi. Ăn bao nhiêu cũng không thấy no. Cả làng cùng góp gạo nuôi Gióng. Ai cũng mong chú bé lớn nhanh, khỏe mạnh để giúp vua đánh gặp cứu nước. Giặc đã đến chân núi Trâu, thế nước rất nguy, ai cũng hoảng sợ, hoảng hốt. Đúng lúc đó, sứ giả đem những thứ Gióng yêu cầu đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai trở thành tráng sĩ, nhảy lên lưng ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội, phun lửa, lao thẳng vào đám giặc. Quân giặc hoảng sợ. Tráng sĩ phi ngựa đến đâu, dẹp tan quân giặc đến đó. Roi sắt gãy, Gióng nhổ tre làm vũ khí. Lũ giặc giẫm đạp lên nhau mà chạy. Tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc. Đến đây, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi bỏ áo giáp, cả người và ngựa bay về trời.
Vua nhớ công ơn, phong Gióng làm Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ tại quê nhà. Những nơi ngựa phi qua để lại ao hồ. Rặng tre bị ngựa phun lửa cháy trở nên vàng óng còn có một làng bị ngựa phun lửa cháy được gọi là làng Cháy.
Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em – Mẫu 2
Đời vua Hùng Vương thứ Sáu, giặc ngoại xâm ở phía bắc chỉ muốn sang chiếm nước Nam ta. Bấy giờ ở làng Phù Đổng, tỉnh Bắc Ninh ngày nay, có một người đàn bà đã sáu mươi tuổi. Một hôm bà ra đồng ruộng thấy có một vết chân rất to lớn, bà đặt chân vào thì khi về nhà bà có thai. Bà sinh được một con trai và đặt tên Gióng. Điều kì lạ là không giống như bao đứa trẻ khác “ba tháng biết nẫy, bảy tháng biết bò”, Gióng nay đã ba tuổi rồi mà không biết nói biết cười, không biết đi, biết nẫy. Rồi bỗng chợt, một ngày nọ ngoài ngõ vang lên tiếng sứ giả rao mõ báo tin nước có ngoại xâm và nhà vua đang cầu hiền tài ra giúp nước. Chợt cậu bé Gióng bật ra tiếng nói, thưa với mẹ:
– Mẹ ơi, con muốn gặp sứ giả.
Quá đỗi bất ngờ, nhưng thấy con có nói cười gọi mẹ, bà vui lắm vội chạy ra gọi sứ giả tới. Gặp mặt sứ giả, cậu Gióng ngồi dậy truyền bảo:
Ngươi hãy về tâu với đức vua đúc cho một con ngựa sắt, một cây kiếm sắt, một roi sắt và một chiếc nón sắt để Gióng ta đi dẹp giặc.
Nhận tin sứ giả tâu lên, vua tức tốc truyền cho làm vật dụng mà Gióng yêu cầu. Rồi sứ giả chuyển đến cho Gióng.
Lại nói chuyện cậu bé Gióng. Từ sau ngày gặp sứ giả, Gióng bảo mẹ và dân làng cứ lo cơm, cà cho Gióng ăn no sẽ lớn lên và đánh được giặc. Bà mẹ cùng dân làng cuống cuồng chạy ngược xuôi lo cơm cà phục vụ cậu Gióng. Khi ăn đến mười nong cơm, ba nong cà, mỗi lần ăn xong một nong lại vươn vai và vụt lớn lên như thổi. Vải vóc do dân làng mang đến rất nhiều để may quần áo mà vẫn không đủ. Dân làng đành phải lấy hoa lau buộc thêm vào để che kín thân. Sau một bữa ăn, Gióng vươn vai đứng dậy, thân cao mười thước, hắt hơi mười tiếng rồi nhảy lên ngựa sắt. Ngựa bị bẹp rúm. Sứ giả sợ hãi cho về đúc lại thành ngựa mới, có đủ nội tạng như ngựa thật, chịu được sức nặng của Gióng. Khi mang ngựa sắt đến nơi cũng là lúc có tin cấp báo giặc Ân đang hoành hành cướp bóc ở Trâu Sơn (!). Thánh Gióng liền đội nón sắt, cầm roi sắt, nhảy lên mình ngựa và thét lớn: Ta là Thiên Tướng đây! Rồi giật cương, ngựa chồm lên, hí dài một tiếng và phi như gió, miệng phun lửa bừng bừng, làm cháy xém cây cối, nhà cửa mấy làng bên (tức các làng Phù Chấn, Phù Lưu và Phù Tảo được mang tên là làng Cháy hiện nay).
Gióng phi ngựa đến chỗ vua đang đóng quân nhận lệnh rồi hướng phía giặc Ân làm tướng tiên phong, quân sĩ ào ào theo sau. Thấy vậy, dân làng trên đường đội quân Gióng đi qua cũng chạy theo, từ trẻ chăn trâu, người đánh cá đến người đập đất, người chài lưới ven sông,… Hai tướng Dực và Minh của đất Hà Lỗ cũng đưa quân theo Gióng. Xung giữa trận tiền, giặc Ân bị đánh tơi bời, đứa thì bị giết, đứa sụp lạy quy hàng. Đang hăng chiến đấu, roi sắt của Gióng bị gãy, chàng liền quờ tay nhổ những khóm tre làng đầy gai mọc gần đấy quật vào quân giặc. Giặc chết như ngả rạ. Hàng loạt dãy tre làng được Gióng dùng vào đánh giặc. Chỗ rặng tre bị nhổ gần núi Trâu Sơn sau biến thành một dải đầm lớn gọi là đầm Thất Gian. Và những mảnh tre bị gãy ném rải rác khắp chiến trường, từ vùng Quế Dương cho đến Đông Ngàn sau này mọc thành loại tre đặc biệt có màu vàng óng ánh nên gọi là tre đằng ngà.
Đánh xong trận ở Trâu Sơn và Hà Lỗ, Gióng cho ngựa phi đến bến Bồ Đề và dừng lại uống nước sông Hồng. Vết chân của ngựa còn để lại hình lồi lõm ở một phiến đá lớn tại làng Phú Viên. Tiếp đó, Gióng lại phi ngựa vượt sông, đi ngược lên hồ Tây, rồi buộc ngựa vào gốc đa bên bờ, nhảy xuống hồ tắm. Nơi này về sau được dân làng Xuân Tảo lập đền thờ cúng. Ăn cơm nắm xong, ngựa đưa Gióng dạo khắp vùng Đông Anh, Kim Anh, Hiệp Hòa. Mỗi nơi ngựa Gióng đi qua đã để lại những cụm ao chuôm mang hình vết chân ngựa. Khi qua Phù Lỗ, đến chân núi Phù Mã, Thánh Gióng bèn cởi áo giáp sắt mắc vào cành đa, thúc ngựa lên đỉnh núi Sóc, để lại nón sắt, roi sắt, nhìn non sông đồng ruộng quanh vùng và hướng về Kẻ Đổng lần cuối, rồi một mình một ngựa bay thẳng lên trời. Hôm đó là ngày mồng chín tháng tư lịch trăng.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Ðổng, tục gọi là làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng những bụi tre đằng ngà ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những hồ ao liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là Làng Cháy.
Sau khi thắng trận, để nhớ ơn người anh hùng, vua Hùng sai lập đền thờ Gióng ở làng quê, phong Gióng làm Phù Đổng Thiên Vương, phong mẹ Gióng là Thánh Mẫu Bảo Vương, cho làng có xóm Ban nơi Gióng sinh ra được đặt tên là làng Phù Đổng.
Từ đấy trở đi, người dân quê Phù Đổng của Gióng năm nào cũng mở hội vào ngày Gióng bay về trời, để nhớ lại chiến trận năm xưa và tưởng nhớ công ơn của vị Thánh làng mình. Trong khi đó, người dân hàng trăm làng quanh vùng núi Sóc lại mở hội để tưởng nhớ ngày Gióng sinh ra, cùng nhau nhớ về người anh hùng đã có công giúp dân đánh giặc ngoại xâm, cứu nước.
Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em – Mẫu 3
Vào đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức, nhưng lại không có con. Một hôm, bà lão ra đồng thấy một vết chân to khác thường. Thấy lạ, bà lão đặt bàn chân mình vào để ước chừng bàn chân mình nhỏ hơn bao nhiêu. Thấm thoát thời gian trôi đi, bà lão có thai, rồi mười hai tháng sau bà sinh được một bé trai khôi ngô tuấn tú. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay, đứa bé đã lên ba mà không biết nói, không biết cười, không biết đi, ai đặt đâu thì ngồi đấy.
Gặp lúc giặc Ân quấy nhiễu, vua sai sứ giả đi rao khắp nơi tìm bậc hiền tài ra đánh giặc cứu dân. Nghe tin, cậu bé làng Gióng bỗng bật lên tiếng nói nhờ mẹ mời sứ giả vào. Cậu yêu cầu sứ giả xin vua đúc cho ngựa sắt, roi sắt áo giáp sắt để mình dẹp tan giặc dữ. Từ đó, cậu lớn nhanh, ăn mạnh đến nỗi dân làng phải rủ nhau góp cơm gạo đến giúp.
Nhận được đủ lễ vua ban, cậu bé vươn vai trở thành một tráng sĩ oai nghi lẫm liệt. Nai nịt xong, chàng lên ngựa, vung roi vun vút. Ngựa phun lửa xông thẳng vào đội hình giặc khiến chúng ngã chết như rạ.
Roi gãy, tráng sĩ nhổ những bụi tre bên đường. Quân giặc thua to, tan vỡ cả, đám sống sót tìm đường lẩn trốn. Tráng sĩ đuổi theo đến chân núi Sóc, cởi áo giáp bỏ lại, cả người lẫn ngựa bay vút lên trời.
Vua Hùng nhớ ơn phong làm Phù Đổng Thiên Vương và cho lập đền thờ tại quê nhà. Từ đó hàng năm vào tháng tư, ở đây hội Gióng được mở ra tưng bừng, nô nức, thu hút người khắp nơi về tham dự.
Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em – Mẫu 4
Từ thuở còn thơ bé, ta đã được nghe bao câu chuyện kể của bà, của mẹ về lịch sử hào hùng, về những truyền thuyết ly kỳ. Và có lẽ ai khi ấy cũng mang trong mình niềm tự hào và ngưỡng mộ những vị anh hùng trong truyền thuyết của dân tộc. Thánh Gióng là một vị anh hùng oai phong như thế. Truyền thuyết Thánh Gióng là truyền thuyết vô cùng hấp dẫn kể về người anh hùng này.
Truyền thuyết kể lại rằng: Đời Hùng Vương thứ sáu, ở một ngôi làng nọ bên sông Hồng, có hai vợ chồng nông dân, vừa chăm chỉ làm ăn lại có tiếng phúc đức nhưng đến lúc sắp về già mà vẫn chứa có nấy một mụn con. Một ngày kia, bà vợ ra đồng như thường ngày, trông thấy một vết chân to, bèn đặt chân mình vào ướm thử. Về nhà bà liền mang thai, hai vợ chồng vô cùng vui mừng. Nhưng không giống những người khác, chín tháng mười ngày qua đi, bà mang thai mười hai tháng mới sinh ra một cậu bé mặt mũi khôi ngô, đặt tên là Gióng. Điều kỳ lạ nữa là Gióng lên ba tuổi vẫn chẳng biết nói, chẳng biết cười, đặt đâu năm đó, hai vợ chồng vừa buồn vừa lo lắng.
Cũng năm ấy, giặc Ân đem quân sang xâm lược bờ cõi nước ta, gây nên bao nhiêu tội ác, dân chúng vô cùng lầm than, khổ sở. Xét thấy thế giặc mạnh, nhà vua bèn sai người đi khắp cả nước tìm người hiền tài cứu nước. Sứ giả đi đến mọi nơi, đi qua cả làng của Gióng. Nghe tiếng rao “Ai có tài, có sức xin hãy ra giúp vua cứu nước”, Gióng đang nằm trên giường bỗng cất tiếng nói đầu tiên:
– Mẹ ơi! Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con.
Thấy vậy, bà mẹ rất bất ngờ vui mừng, vội đi ra mời sứ giả vào nhà. Gióng yêu cầu sứ giả về tâu với vua, chuẩn bị đầy đủ ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt để cậu đi đánh giặc.
Kỳ lạ hơn, sau khi sứ giả trở về, Gióng ăn rất khỏe và lớn nhanh như thổi. Cơm ăn bao nhiêu cũng không no, áo vừa mặc xong đã sứt chỉ. Mẹ cậu nuôi không đủ đành nhờ đến hàng xóm láng giềng. Bà con biết chuyện nên cũng rất phấn khởi, ngày đêm tấp nập nấu cơm, đội cà, may vá cho cậu rất chu đáo. Ai cũng hy vọng Gióng sớm ngày ra giết giặc giúp nước, trừ họa cho dân.
Ngày ấy, giặc vừa đến sát chân núi Trâu thì sứ giả cũng kịp mang vũ khí tới. Gióng bèn vươn vai đứng dậy, lập tức trở thành một tráng sỹ, khoác áo giáp, cầm roi sắt, chào mẹ và dân làng rồi nhảy lên ngựa. Cả người cả ngựa lao vun vút ra trận.
Trên chiến trường, Gióng tung hoành ngang dọc, tả đột hữu xung, giặc chết dưới tay như ngả rạ. Bỗng gậy sắt gãy, Gióng nhanh như chớp nhổ tre bên đường làm vũ khí mới. Giặc sợ hãi chạy trốn, dẫm đạp lên nhau mà chết. Khi trời đất đã sạch bóng giặc, Gióng phi ngựa bay về núi Sóc, cởi bỏ áo giáp sắt, vái tạ mẹ rồi bay về trời.
Vua phong hiệu cho cậu là Thánh Gióng, nhân dân lập đền thờ phụng, ghi nhớ công ơn. Nhiều đời sau người ta còn kể, khi ngựa sắt thét ra lửa, lửa đã thiêu trụi một làng. Đến nay làng ấy gọi là làng Gióng. Những vết chân ngựa in xuống ngày xưa nay đã thành những ao hồ to nhỏ nối tiếp nhau, là di tích minh chứng cho chiến công oanh liệt của Thánh Gióng.
Nhiều thời đại qua đi, truyền thuyết người anh hùng Thánh Gióng vẫn được lưu giữ và truyền tụng mãi trong dân gian, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Thánh Gióng chính là biểu tượng cho ước mơ, sức mạnh bảo vệ đất nước của nhân dân ta.
Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em – Mẫu 5
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng nổi tiếng là chăm chỉ, hiền lành và phúc đức. Hai ông bà đã lớn tuổi mà vẫn chưa có con. Một lần, bà ra đồng thì trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân lên ướm thử xem thua kém bao nhiêu. Đến khi về nhà, bà lại thụ thai và mười hai tháng sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Kì lạ là, đứa trẻ lên ba tuổi vẫn chưa biết nói, biết cười, ai đặt đâu thì ngồi đấy.
Lúc bấy giờ, giặc Ân đến xâm lược nước ta. Thế giặc mạnh khiến nhà vua lo sợ. Vua sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài. Đến làng Gióng, cậu bé nghe tiếng sứ giả bỗng cất tiếng nói: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây”. Sứ giả vào, cậu liền bảo: “Ông về tâu với nhà vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này”. Sứ giả vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, liền vội vàng về tâu với nhà vua.
Kể từ sau hôm gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn bao nhiêu cũng không no. Hai vợ chồng làm ra không đủ để nuôi con, phải nhờ cậy bà con hàng xóm. Ai cũng vui vẻ giúp đỡ vì đều mong cậu bé có thể đánh tan lũ giặc.
Lúc bấy giờ, giặc đã đến chân núi Trâu. Thế nước lúc này rất nguy. Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Bỗng, chú bé vùng dậy, vươn vai thành tráng sĩ. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi thẳng đến nơi có giặc. Giặc bị tiêu diệt hết lớp này đến lớp khác. Bỗng roi sắt gãy, tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân giẫm lên nhau chạy trốn.
Tráng sĩ một mình một ngựa, lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời. Nhà vua nhớ công ơn phong là Phù Đổng Thiên Vương, cho lập đền thờ ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là làng Gióng. Người ta còn kể rằng những bụi tre ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn kể rằng ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy.
Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em – Mẫu 6
Vào thời Hùng Vương thứ sáu, tại làng Phù Đồng có đôi vợ chồng già. Họ nổi tiếng vì chăm làm, phức đức. Thế nhưng buồn thay họ lại không có mụn con nào để chăm sóc khi về già.
Một ngày nọ, khi ra đồng, người vợ nhìn thấy một dấu chân kỳ lạ. Dấu chân đó to hơn chân người bình thường. Thấy tò mò nên người vợ đã ướm chân thử. Kỳ lạ thay, về nhà người vợ thụ thai. Mang thai 12 tháng, người vợ sinh ra một bé trai nhưng cậu bé ba tuổi mà vẫn không biết nói cười, đặt đâu nằm đấy.
Lúc bầy giờ, nước Ân cho quân sang xâm chiến nước ta. Thế giặc vừa mạnh vừa nhanh khiến vua vô cùng lo lắng. Vì thế đã cho xứ giả đi khắp nơi tìm người hiền tài giúp nước. Gióng nghe xong bèn bảo mẹ gọi xứ giả vào để thưa chuyện. Khi sứ giả đến, cậu bé bảo xứ giả hãy bảo nhà vua chuyển bị cho mình một con ngựa sắt, một bộ giáp sắt, một cái gậy bằng sắt cậu bé sẽ giúp nhà vua đánh tan quân giặc.
Sứ giả vô cùng mừng rỡ và về tâu với nhà vua. Nhà vua đã cho người làm ngày làm đêm để chuẩn bị những gì Gióng yêu cầu.
Càng kỳ lạ hơn khi từ sau hôm gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, quần áo vừa may đã chật. Hai vợ chồng bao nhiêu cũng không đủ nuôi còn vì thế phải nhờ bà con hàng xóm. Bà con cũng vui lòng góp gạo để nuôi cậu bé. Vì ai cũng mong có thể đánh tan quân giặc, bảo vệ tổ quốc.
Khi giặc đến chân núi Trâu Sơn ai đấy đều vô cùng hoảng hốt và lo sợ. Cùng lúc đó, sử giả đã mang áo giáp sắt, ngựa sắt, voi sắt đến. Gióng vươn vai một cái bỗng thành một tráng sĩ cao lớn. Tráng sĩ bước đến vỗ vai mông ngựa, bỗng dưng ngựa hí vang mấy tiếng. Gióng nhanh chóng mặc áo giáo vào, cầm roi sắt và cưỡi lên lưng ngựa.
Gióng cùng ngựa sẵn phi thẳng đến chỗ đóng quân của địch. Ngựa phun lửa, tráng sĩ cần gậy sắt đánh giặc, chúng chết như ngả rạ. Gậy sắt gẫy, Giống không hề chần chờ nhổ tre ven đường quật vào giặc. Giặc Ân tan vỡ. Đám giặc còn lại dẫm đạp lên nhau mà trốn về nước.
Đến đây, Gióng cưỡi ngựa lên đỉnh núi. Cưởi bỏ áp giáp, sau đó cả người và ngựa bay lên trời và biến mất. Để ghi nhớ công ơn, vua đã ghi nhớ và phong làm Phù Đổng thiên vương, lập miếu thờ tại quê nhà. Đến nay, hàng năm, làng đều mở hội để nhớ về người.
Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em – Mẫu 7
Đời Hùng Vương thứ sáu, tại làng Gióng có hai vợ chồng hiền lành, nổi tiếng là phúc đức. Họ luôn mong ước có một đứa con.
Một lần nọ, người vợ ra đồng trông thấy một vết chân rất to. Bà liền đặt chân vào ướm thử. Về nhà, bà liền mang thai. Mười hai tháng sau sinh ra một cậu bé. Kì lạ, cậu bé lên ba tuổi vẫn không biết nói, biết cười. Ai đặt đâu thì cậu ngồi đấy.
Giặc Ân xâm lược nước ta, thế giặc mạnh khiến nhà vua rất lo lắng. Vua cho sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giúp nước. Đến làng Gióng, cậu bé nghe tiếng rao của sứ giả, liền cất tiếng nói đầu tiên, bảo mẹ:
– Mẹ hãy ra mời sứ giả vào đây cho con!
Sứ giả vào, cậu bé liền nói:
– Ông hãy về tâu với nhà vua đúc cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt. Ta sẽ đánh tan lũ giặc này.
Sứ giả nghe xong lấy làm lạ, vội về tâu lại với nhà vua. Vua liền sai thợ rèn ngày đêm làm những món đồ cậu bé yêu cầu. Sau hôm gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như thổi, cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc mấy cũng không vừa. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi, phải nhờ đến sự giúp đỡ của bà con làng xóm.
Giặc đã đến chân núi Trâu. Thế nước lúc này rất nguy. Đúng lúc sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến. Cậu bé vùng dậy, vươn vai thành tráng sĩ. Tráng sĩ mặc áo giáp sắp, cầm roi sắt rồi cưỡi lên lưng ngựa.
Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội, phun lửa vào quân giặc. Giặc hoảng hốt bỏ chạy. Tráng sĩ phi ngựa đến đâu, quân giặc bại trận đến đó. Roi sắt gãy, tráng sĩ liền nhổ bụi tre đánh tan quân giặc. Thua trận, đám tàn quân giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc.
Tráng sĩ cưỡi ngựa lên đỉnh núi. Đến đây, tráng sĩ cởi bỏ áo giáp sắt, cưỡi ngựa bay lên trời. Để tưởng nhớ công ơn, vua Hùng đã phong cho tráng sĩ là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ tại quê nhà. Những nơi ngựa phi qua để lại ao hồ. Rặng tre bị ngựa phun lửa cháy trở nên vàng óng còn có một làng bị ngựa phun lửa cháy được gọi là làng Cháy.
Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em – Mẫu 8
Từ nhỏ, chúng ta đã được nghe nhiều câu chuyện của bà và người mẹ, về lịch sử anh hùng, về những truyền thuyết ly kỳ. Và có lẽ tất cả mọi người vào thời điểm đó cũng mang trong mình niềm tự hào và ngưỡng mộ đối với những anh hùng huyền thoại của quốc gia.
Thánh Gióng là một anh hùng hùng dũng. Truyền thuyết về Thánh Gióng là một truyền thuyết vô cùng hấp dẫn về người anh hùng này.
Truyền thuyết kể rằng: Trong cuộc đời Hùng Vương lần thứ 6, ở một ngôi làng nào đó trên sông Hồng, có một vài nông dân vừa làm việc chăm chỉ vừa có danh tiếng về công đức nhưng khi về già, họ vẫn không có một mụn con nào.
Một ngày nọ, người vợ đi ra cánh đồng như bình thường, và nhìn thấy một dấu chân lớn, và đặt chân vào ướm thử. Về nhà, bà mang thai ngay lập tức, hai vợ chồng vô cùng hạnh phúc. Nhưng không giống như những người khác, chín tháng mười ngày trôi qua, bà đã mang thai mười hai tháng để sinh ra một cậu bé mặt đẹp trai, tên là Gióng.
Điều kỳ lạ là Gióng, ba tuổi, vẫn không thể nói, không thể mỉm cười, đặt đâu nằm đấy, và cặp vợ chồng vừa buồn vừa lo lắng.
Cùng năm đó, địch đem quân xâm lược nước ta, gây ra nhiều tội ác, người dân vô cùng khốn khổ. Thấy địch mạnh, nhà vua sai người đi khắp đất nước tìm người hiền lành, tài giỏi để cứu nước. Sứ giả đi khắp nơi, đi qua cả làng nơi Gióng ở. Nghe giọng nói “Ai có tài năng và sức mạnh, xin hãy giúp nhà vua cứu nước”, Gióng, nằm trên giường, đột nhiên nói:
– Mẹ ơi! Mẹ đã mời sứ giả ở đây cho con.
Thấy vậy, người mẹ vô cùng mừng rỡ, và vội vã ra ngoài mời sứ giả vào nhà. Giồng yêu cầu sứ giả trở về với nhà vua, chuẩn bị đủ ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt để ông chiến đấu với kẻ thù.
Kỳ lạ hơn, sau khi sứ giả trở về, Gióng ăn rất mạnh và lớn lên như thổi. Lượng cơm cậu ấy ăn không kịp đầy, áo vừa hoàn thành bị sứt chỉ. Mẹ nuôi của anh không đủ khả năng để dựa vào những người hàng xóm.
Mọi người biết câu chuyện nên họ rất hào hứng, bận rộn ngày đêm nấu ăn, may áo cho anh rất chu đáo. Mọi người đều hy vọng rằng Gióng sẽ sớm ra ngoài để giết kẻ thù và giúp đỡ đất nước, loại trừ thảm họa cho người dân.
Ngày hôm đó, khi kẻ thù vừa đến chân núi Trâu, sứ giả cũng mang theo vũ khí đến. Gióng vươn vai đứng dậy, ngay lập tức trở thành anh hùng, mặc áo giáp, cầm roi sắt, chào mẹ và dân làng, và nhảy lên ngựa. Cả người và con ngựa đều lao vào trận chiến.
Trên chiến trường, Gióng quét sạch quân giặc, địch chết dưới tay như rơm rạ. Bất ngờ roi sắt bị gãy, Gióng nhanh như chớp và kéo tre ra bên đường để chế tạo vũ khí mới.
Kẻ thù sợ hãi bỏ chạy, giẫm đạp lên nhau và chết. Gióng cưỡi ngựa và bay trở lại núi Sóc, cởi áo giáp sắt, cúi đầu trước mẹ và bay về trời.
Nhà vua ban cho ông danh hiệu Thánh Gióng. Người ta xây đền thờ để thờ phượng, để tưởng nhớ công đức. Nhiều thế hệ sau, người ta nói rằng khi con ngựa sắt phát ra lửa, ngọn lửa đã thiêu rụi một ngôi làng. Đến nay, ngôi làng được gọi là làng Gióng. Những bước chân in dấu ngày xưa trở thành những ao hồ liên tiếp, một minh chứng cho chiến thắng vẻ vang của Thánh Gióng.
Nhiều thời đại đã trôi qua, truyền thuyết về anh hùng Thánh Gióng vẫn được gìn giữ và truyền lại trong dân gian, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Thánh Gióng là biểu tượng cho ước mơ và sức mạnh bảo vệ đất nước của nhân dân ta.
Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em – Mẫu 9
Ngày xưa, có hai vợ chồng nông dân nghèo khó nhưng hiền lành. Tuy họ đã lớn tuổi nhưng vẫn chưa có một mụn con.
Một hôm, bà ra đồng ruộng thấy có một vết chân rất to lớn, bà đặt chân vào thì khi về nhà bà có thai. Bà sinh được một con trai và đặt tên Gióng. Cậu bé lên ba tháng biết lẫy, bảy tháng biết bò”, Gióng nay đã ba tuổi rồi mà không biết nói biết cười. Thuở ấy, giặc Ân sang xâm lược nước ta. Vua Hùng cho sứ giả đi khắp nơi tìm người tài. Khi nghe tiếng rao của sứ giả, Gióng liền nói với mẹ:
– Mẹ ơi, con muốn gặp sứ giả.
Quá đỗi bất ngờ, nhưng thấy con có nói cười gọi mẹ, bà vui lắm vội chạy ra gọi sứ giả tới. Gặp mặt sứ giả, cậu Gióng ngồi dậy truyền bảo:
– Ngươi hãy về tâu với đức vua đúc cho một con ngựa sắt, một cây kiếm sắt, một roi sắt và một chiếc nón sắt để Gióng ta đi dẹp giặc.
Nhận tin sứ giả tâu lên, vua tức tốc truyền cho làm vật dụng mà Gióng yêu cầu. Rồi sứ giả chuyển đến chỗ Gióng.
Lại nói chuyện cậu bé Gióng. Từ sau ngày gặp sứ giả, Gióng bảo mẹ và dân làng cứ lo cơm, cà cho Gióng ăn no sẽ lớn lên và đánh được giặc. Bà mẹ cùng dân làng cuống cuồng chạy ngược xuôi lo cơm cà phục vụ cậu Gióng. Khi ăn đến mười nong cơm, ba nong cà, mỗi lần ăn xong một nong lại vươn vai và vụt lớn lên như thổi. Vải vóc do dân làng mang đến rất nhiều để may quần áo mà vẫn không đủ. Giặc đánh đến nơi, Gióng vươn vai thành tráng sĩ đi giết giặc. Giặc tan, Gióng bỏ lại áo giáp sắt rồi cưỡi ngựa bay về trời.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Ðổng, tục gọi là làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng những bụi tre đằng ngà ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những hồ ao liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là Làng Cháy.
Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em – Mẫu 10
Chắc hẳn, tuổi thơ mỗi người, ai cũng được lớn lên bên những câu chuyện dân gian của bà, của mẹ. Qua những câu chuyện ấy, chúng ta như được đắm chìm vào thế giới đầy thơ, đầy mộng của cha ông, hiểu biết thêm về lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Một trong những câu chuyện mà em ấn tượng nhất chính là truyền thuyết “Thánh Gióng” kể về người anh hùng đánh giặc, giữ nước.
Câu chuyện ấy xảy ra từ đời Hùng Vương thứ sáu. Ở làng Gióng, có hai ông bà già nổi tiếng là sống phúc đức. Hai ông bà rất mong có một đứa con. Thế rồi một hôm, bà ra đồng, thấy một vết chân to, bà ngạc nhiên kêu lớn: “Chao ôi! Bàn chân ai mà to thế này?”. Tò mò nên bà đưa chân vào ướm thử, không ngờ về nhà bà mang thai. Điều kì lạ là mãi mười hai tháng sau bà mới sinh được một cậu con trai mặt mũi khôi ngô, tuấn tú. Hai vợ chồng vui mừng khôn xiết. Nhưng kì lạ hơn nữa, đứa trẻ đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đó.
Bấy giờ, giặc Ân thế mạnh như chẻ tre tràn vào xâm lược nước ta. Chúng đi đến đâu là đốt phá nhà cửa, cướp của giết người đến đấy. Đội quân Hùng Vương nhiều lần xuất trận tấn công tiêu diệt nhưng đánh không lại nổi chúng. Vua Hùng vô cùng lo lắng, vội phái sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi giúp vua cứu nước. Đi đến đâu, sứ giả cũng cất tiếng rao: “Loa! Loa! Loa! Giặc đến xứ ta. Ai người tài giỏi. Mau ra giúp nước! Nghe tiếng rao, đứa bé bỗng cựa mình và cất tiếng nói: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con!”. Sứ giả vào, đứa bé bảo: ” Ông về tâu với vua, sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này!”. Ai nấy đứng nghe đều thấy lạ lùng, cho là thần nhân xuất hiện. Sứ giả lập tức phi ngựa về cung tấu với vua. Hùng Vương mừng rỡ, liền hạ lệnh cho thợ rèn lập tức rèn áo giáp sắt, mũ sắt, roi sắt, ngựa sắt theo yêu cầu của chú bé.
Càng lạ hơn nữa, từ hôm gặp sứ giả, chú bé bỗng lớn nhanh như thổi. Cơm ăn bao nhiêu cũng không không biết no, quần áo vừa may xong đã chật. Hai vợ chồng làm lụng cật lực, chạy vạy ngược xuôi mà cũng không đủ nuôi chú bè, đành phải cậy nhờ hàng xóm. Bà con ai cũng mong cậu đi giết giặc cứu nước nên chẳng nề hà gì, đều vui lòng gom góp gạo nuôi cậu bé.
Ngày ấy, khi giặc vừa tiến sát đến chân núi Trâu thì sứ giả cũng kịp thời mang vũ khí tới. Gióng vươn vai đứng dậy, lập tức biến thành một tráng sĩ mình cao hơn trượng, cậu khoác áo giáp, cầm roi sắt, chào dân làng và từ biệt mẹ rồi nhảy lên lưng ngựa, cả người và ngựa lao vun vút ra trận. Trên chiến trường, Gióng tung hoành ngang dọc, tả đột hữu xông, giặc chết dưới tay như ngả rạ. Bỗng roi sắt bị gãy, Gióng nhanh trí nhổ tre bên đường làm vũ khí mới. Giặc sợ hãi chạy trốn, dẫm đạp lên nhau mà chết. Dẹp giặc xong, Gióng không quay về kinh để nhận công ban thưởng mà thúc ngựa đến núi Sóc, bỏ lại áo giáp sắt, một người một ngựa bay thẳng về trời.
Đất nước sạch bóng quân thù. Nhớ ơn người anh hùng, vua Hùng sai lập đền thờ Gióng ngay tại quê nhà, phong Gióng làm Phù Đổng Thiên Vương, phong mẹ gióng là Thánh Mẫu Bảo Vương. Nhiều đời sau, người ta còn kể, những nơi ngựa của Gióng đi qua để lại trăm ao hồ, rặng tre bị ngựa phun lửa cháy trở nên vàng óng và còn có một làng bị ngựa phun lửa cháy được gọi là Làng Cháy.
Có thể nói, truyền thuyết “Thánh Gióng” cùng hình tượng người anh hùng làng Gióng đã in đậm dấu ấn trong đời sống tinh thần người Việt từ bao đời nay. Câu chuyện đã khơi dậy trong em lòng yêu nước và ý thức trách nhiệm sâu sắc đối với đất nước. Em tự hứa với lòng sẽ luôn học tập, rèn luyện để tiếp bước cha ông, đóng góp sức mình điểm tô cho đất nước.
Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em – Mẫu 11
Chuyện tương truyền rằng: Đời Hùng Vương thứ 6, làng nghèo kia có cặp vợ chồng, tuy lớn tuổi nhưng vẫn chưa có được một mụn con nào cả.
Một ngày kia, người vợ ra đồng liền thấy một dấu chân rất to. Vì tò mò nên người vợ ướm thử, không biết là trời động lòng thương hay sao mà sau đó về nhà người vợ đã có mang. Chưa kịp vui mừng thì tai họa lại ập đến, sau chín tháng mười ngày người vợ chưa sinh kịp sinh con thì người chồng đã qua đời. Mười hai tháng sau người vợ sinh ra một người con kháu khỉnh khôi ngô và đặt tên là Gióng. Lạ thay đứa nhỏ lên 3 vẫn chưa biết đi, biết nói, biết cười, đặt đâu thì cứ nằm đó. Người vợ buồn bã khôn xiết nhưng không biết làm thế nào.
Lúc bấy giờ, giặc Ân xâm phạm bờ cõi nước ta. Nhà vua lo lắng và cho truyền quân lệnh để cầu người tài ra giúp nước dẹp giặc. Đến làng của Gióng, cậu liền nói với mẹ:
– Mẹ mời sứ giả vào đây cho con!
Nghe tiếng con, mẹ Gióng hết sức vui mừng, nhưng vội khựng lại khi nghe con muốn gặp sứ giả. Sứ giả vào đến nơi chỉ thấy đứa bé ba tuổi nằm trên giường, họ không khỏi ngạc nhiên và thất vọng. Thế nhưng Gióng dõng dạc nói rõ:
– Sứ giả hãy về tâu với nhà vua, đúc cho ta một con ngựa sắt, một áo giáp sắt, một cây roi sắt ta sẽ phá tan lũ giặc này.
Từ ngày gặp sứ giả, Gióng khác lạ khi lớn nhanh như thổi, cơm ăn bao nhiêu cũng không no. Dân làng chung sức với nhau góp gạo nuôi Gióng, chỉ mong Gióng lên đường lập công, cứu dân, cứu nước. Ngày giặc tràn bờ cõi cũng đến, Gióng đứng dậy vươn mình nhảy lên ngựa sắt, nhổ bụi tre làng làm vũ khí và đánh cho giặc tan tác. Sau khi giết sạch giặc, Gióng cưỡi ngựa bay thẳng về trời. Để ghi nhớ công ơn to lớn giúp diệt giặc cứu nước, người đời đã lập đền thờ và phong cho ông là Phù Đổng Thiên Vương.
Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em – Mẫu 12
Vào đời Hùng Vương thứ 6, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão hiền lành, chăm chỉ làm ăn. Ông bà đã già, nhưng không có con chỉ ước mong có một mụn con để nhà cửa sớm hôm có tiếng trẻ cười đùa. Một hôm bà lão đi ra đồng thấy một vết chân khác lạ, bà đắn đo suy nghĩ rồi đặt chân mình lên ướm thử. Không ngờ sau hôm đó bà có thai. Kì lạ thay, bà mang thai đến tháng 12 mới sinh ra một cậu bé khôi ngô, tuấn tú. Vợ chồng bà vui lắm, đặt tên cho con là Gióng. Gióng lên ba, mà vẫn không biết nói biết cười, cũng chẳng biết đi, chỉ đặt đâu nằm đấy. Ông bà buồn lắm.
Bấy giờ, giặc Ân sang xâm lược nước ta. Chúng gây ra biết bao tội ác, khiến dân chúng vô cùng khổ sở. Nhà vua trăm bề lo lắng. Thế giặc ngày càng mạnh, vua bèn sai sứ giả đi đi khắp nơi rao tin tìm người tài giỏi, giúp vua dẹp giặc. Nghe thấy tiếng sứ giả, cậu bé Gióng cất tiếng nói gọi mẹ: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây”. Bà mẹ vô cùng ngạc nhiên, nhưng vẫn chiều lòng con liền mời sứ giả vào nhà. Gặp sứ giả, Gióng ngồi dậy bảo: ” Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt, và một tấm áo giáp sắt ta sẽ đánh tan lũ giặc này”. Sứ giả bèn đem câu chuyện bẩm báo lại với nhà vua.Vua nghe thấy vừa mừng lo, nhưng vẫn truyền cho thợ làm những vật dụng mà Gióng yêu cầu, rồi mang đến cho cậu bé.
Từ sau hôm gặp sứ giả, Gióng lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, quần áo vừa mặc đã chật. Vợ chồng ông lão không đủ gạo để nuôi Gióng nữa, phải nhờ bà con, hàng xóm giúp đỡ. Dân làng ai nấy đều vui vẻ, cùng nhau góp gạo nuôi Gióng mong cậu có thể sớm ra trận đánh tan lúc giặc Ân xâm lược. Khi sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt đến cũng là lúc có tin cấp báo giặc Ân đã tiến vào đến chân núi Trâu. Cậu bé liền đứng dậy vươn vai bỗng chốc biến thành một tráng sĩ cao lớn, mạnh mẽ và có sức khỏe phi thường. Chàng mặc áo giáp, cầm roi sắt và nhảy lên ngựa. Tráng sĩ quật mạnh chiếc roi vào lưng ngựa, ngựa phun lửa hét vang, rồi phi phẳng đến chỗ giặc.
Đứng trước quân giặc tráng sĩ oai phong lẫm liệt, khí thế ngút trời.Khi xung trận, chàng Gióng dùng roi sắt đánh giặc hết lớp này đến lớp khác. Bỗng roi sắt gẫy. Tráng sĩ bèn mấy bụi tre bên đường quật mạnh vào đám tàn quân còn lại. Giặc chết như ngả rạ, đám tàn quân còn lại vô cùng hoảng sợ, bỏ lại vũ khí dẫm đạp lên nhau bỏ trốn. Chàng Gióng truy đuổi giặc đến chân núi Sóc và tại đây tráng sĩ cởi bỏ áo giáp để lại roi săt bên tảng đá rồi người và ngựa bay thẳng lên trời.
Sau khi đánh thắng trận, để tưởng nhớ công ơn người anh hùng, nhà vua bèn sai lập đền thờ Gióng ở quê nhà và phong cho cậu bé Gióng làm Phù Đổng Thiên Vương. Vua ra lệnh đổi tên làng Gióng thành làng Phù Đổng.
Hiện nay, ở làng Phù Đổng vẫn còn những bụi tre đằng ngà màu vàng óng vì bị ngựa phun lửa cho cháy mới chuyển sang màu vàng. Những vết chân ngựa đi qua, nay thành những ao hồ liên tiếp. Câu chuyện về ngôi làng bị lửa của ngựa sắt thiêu rụi và cái tên làng Cháy cũng ra đời từ đó. Ngày nay, vẫn còn đền thờ Gióng ở làng Phù Đổng, hằng năm cứ đến tháng tư dân làng lại nô nức mở hội để tưởng nhớ công ơn của vị anh hùng giúp vua dẹp giặc, mang lại cuộc sống ấm no cho người dân.
Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em – Mẫu 13
Hằng năm, cứ đến những ngày đầu tháng giêng với khí trời trong trẻo và tưng bừng của ngày tết chưa qua thì ở làng Gióng, Sóc Sơn, Gia Lâm, Hà Nội lại tổ chức hội Gióng để tưởng nhớ vị anh hùng đã có công dẹp giặc Ân, giữ yên bờ cõi và hơn hết là truyền lại cho đời sau tinh thần đấu tranh nhân dân lấy tre làm vũ khí. Hình tượng Thánh Gióng đã trở thành một trong tứ bất tử có sức ảnh hưởng đến văn hóa tín ngưỡng của người Việt. Câu chuyện về sự ra đời, lớn lên của Thánh Gióng cũng là một câu chuyện thần kì.
Từ rất xưa, khi đất nước ta có tên gọi là Văn Lang và dưới thời cai trị của các vua Hùng. Vào đời vua Hùng thứ 6, vua thuận lòng dân, hợp ý trời nên mưa thuận gió hòa, quanh năm người dân cày cấy, đánh bắt được mùa nên cuộc sống của người dân khắp đất nước tạm yên ổn.
ở một ngôi làng nọ, có hai vợ chồng ông lão ăn ở phúc đức nhưng chẳng may đã ngoài lục tuần mà vẫn chưa có lấy một mụn con. Ông bà ngày đêm cầu trời khẩn phật, đi hết chùa này đến miếu nọ vẫn chưa thấy gì thay đổi. Một hôm, như mọi khi, bà ra đồng cấy lúa, lúc ra về bà thấy một bàn chân rất to và kì lạ in hằn trên đất. Lấy làm lạ, bà ướm thử chân mình vào, về nhà bà đã thụ thai. Khi bụng ngày một to và cũng sắp đến ngày khai hoa nở nhị, ông bà càng trông đợi đứa con thì đứa trẻ vẫn chưa chịu ra đời. Nỗi lo lắng cộng tuổi già khiến ông lão bệnh rồi qua đời. Bà mang thai đúng 12 tháng mới hạ sinh một cậu trai kháu khỉnh. Cậu bé ra đời đã mang trên người một ánh hào quang khác thường. Thời gian trôi qua, cậu bé 3 tuổi mà vẫn không nói, không cười, thậm chí cũng chẳng biết bò, biết đi như những đứa trẻ cùng trang lứa. Hàng xóm láng giềng kẻ bàn tán, người thương hại khiến bà mẹ càng đau lòng. Bà mang cậu bé đến những nhà lang y nổi tiếng mà vẫn không thể chữa khỏi vì cậu bé vốn chẳng bệnh tật gì.
Năm ấy, giặc Ân sang xâm phạm bờ coi nước ta. Chúng đến cướp bóc, phá các thôn làng, bắt giết trâu bò ăn thịt, lấy gạo của nông dân. Cuộc sống của nhân dân bỗng trở nên cơ cực, lòng dân oán hận mà không thể đánh đuổi được kẻ thù. Triều đình cho quân lính ra trận nhưng thế giặc mạnh quân ta không thể nào đấu lại. Vua vô cùng nao núng,bèn cho sứ giá đi khắp nơi trên đất nước tìm nhân tài, sứ giả đi tới đâu loa truyền vang khắp xóm:
Loa loa, nay đất nước đang lâm nguy, nhà vua trọng nhân tài, ai có tài năng thì lên kinh phò tá.
Cậu bé đang nằm lăn lóc trong nhà nghe tiếng sứ giả bỗng nhiên thốt lên:
Mẹ ơi! Mẹ mời sứ giả vào đây cho con!
Bà mẹ chưa hết vui mừng vì con mình đã nói được lại hoảng hốt khi con đòi gắp sứ giả, người mẹ can:
Con còn bé thế này, sứ giả đang tìm người tài, con gặp ông ấy làm gì.
Thưa mẹ, con muốn giúp đất nước, xin mẹ hãy mời ông ấy vào đây?
Người mẹ phần lo sợ, phần thương con van nài nên bạo dạn ra mời sứ giả vào. Lúc này, sứ giả gặp một cậu bé tuổi lên ba, tóc còn để chỏm đang dõng dạc nói chuyện, ông cho là đứa trẻ nghịch ngợm, toan bỏ đi.
Có phải ông được lệnh vua tìm người tài đánh giặc Ân? Thế giặc đang hùng mạnh như hổ thêm cánh, nếu không gấp rút thì con hổ ấy sẽ nuốt chửng cả đất nước.
Sau khi nghe xong những lời nói ấy của cậu bé, sứ giả nửa tin, nửa ngờ đáp:
Vậy theo ngươi thì nên làm thế nào?
Ông tìm đúng người rồi đấy, mau về tâu với vua rèn cho ta một con ngựa sắt, một áo giáp sắt, một chiếc roi sắt, đem đến đây cho ta, còn những chuyện khác cứ giao ta.
Sứ giả nhận ra đây thật là một nhân tài nên vội thúc ngựa chạy nhanh về cung bẩm báo. Đêm hôm trước. vua nằm mộng thấy có phúc tinh trên trời chiếu xuống, tra ra thì nơi ấy chính là chỗ ở của cậu bé nên quả quyết đây thật sự là người tài có thể giúp được cho đất nước. Vua cho truyền quân sĩ ngày đêm rèn các loại binh khí đúng theo yêu cầu của cậu bé. Từ ngày gặp sứ giả, cậu Gióng bỗng khác hẳn đi. Cậu ăn rất nhiều, người mẹ chẳng kịp xay thóc nấu cơm. Hàng xóm thấy vậy cũng góp phần nuôi cậu bé.
Giặc đã tràn nên chân núi Trâu, thế giặc ngày càng hun hãn. Đứng xa vài dặm đã nghe thấy tiếng reo hò của kẻ thù. Đúng lúc này, sứ giả mang đến cho Gióng roi sắt, ngựa sắt và áo giáp sắt. Gióng nhanh chóng khoác tấm áo choàng, bỗng một cậu bé lên ba đã biến mất thay vào đấy là một chàng trai khôi ngô, dáng cao, mắt sáng. Ai nấy đều ngạc nhiên, cả người mẹ Gióng cũng ngỡ ngàng không tin vào mắt mình. Bà mới vỡ ra sự tình, có lẽ đứa con trai của bà thương yêu bấy lâu nay chính là thần tiên trên trời đã sai xuống để giúp dân lành trừ giặc. Các quân sĩ cùng nhân dân nhận thấy được sức mạnh phi thường của người tướng lĩnh càng thêm vững lòng và nguyện đem cả tính mạng của mình để bảo vệ đất nước. Giặc cầm cờ phất trận, trống đánh liên hồi, gió ngựa tung bay. Thánh Gióng nhảy lên mình ngựa sắt, chàng cầm roi sắt và quất vào mông ngựa, ngựa đột nhiên hí vang trời. Chàng phi ngựa xông thằng đến tên giặc cầm đầu, dủng roi sắt đánh tan quân thù. Chàng mở đường đi trước, quân lính reo hò theo sau khiến kẻ thù khiếp sợ. Chúng chạy toán loạn giẫm đạp lên nhau. Roi sắt gãy, chàng nhổ bụi tre bên đường để đánh. Tre như roi khiến quân giặc tan tành.
Quê hương đã sạch bóng quân thù. Chàng Gióng trở về nhà lạy tạ mẹ rồi từ giã dân làng để bay về trời. Mẹ già vừa thương con vừa lưu luyến:
Mẹ con ta duyên chẳng được bao lâu, mẹ thì già rồi lại đơn lẽ một mình muốn có con bên cạnh nhưng vì con chẳng phải người trần. Con phải trở về, con đi mẹ chỉ biết ngóng trông ngày con trở lại.
Thánh Gióng xót xa cho cảnh mẹ già tiễn con nên an ủi:
Mẹ đừng buồn, con về trời nhưng cũng sẽ có ngày lại trở về thăm mẹ. Mẹ ở nhà giữ gìn sức khỏe, con mới có thể yên tâm rời khỏi.
Sau buỗi đưa tiễn ngậm ngùi, Thánh Gióng bỏ lại áo giáp sắt, ngựa sắt rồi bay thẳng về trời. Vua nhớ công ơn nên lập đền thờ Gióng tại chân núi Sóc Sơn. Dân làng nơi đây hằng năm đều tổ chức tưởng nhớ chàng.
Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em – Mẫu 14
Ngày xửa ngày xưa, vào thời vua Hùng Vương thứ mười sáu, có một đôi vợ chồng tuy đã già nhưng vẫn chẳng có lấy một mụn con. Hai ông bà lão nổi tiếng là người hiền lành, đôn hậu ở làng Gióng nhưng không hiểu sao lại chịu sự không may mắn như vậy. Cho đến một ngày, khi bà lão đi ra đồng thì chợt thấy một dấu chân to khổng lồ. Lấy làm ngạc nhiên, bà lão đưa chân mình vào ướm thử để đo xem dấu vết chân đó to đến cỡ nào. Thời gian thấm thoát trôi đi, bà lão chẳng còn nhớ đến vết chân ngày xưa nữa thì bỗng một ngày bà có thai. Hai vợ chồng bà lão mừng lắm, bà sinh ra một cậu bé khôi ngô, tuấn tú. Ấy thế mà đứa trẻ đó từ khi sinh ra lại chẳng biết nói, cũng không biết cười, không biết đi, chỉ đặt đâu thì nó nằm đấy. Hai ông bà từ mừng rỡ khi sinh được con đến lo lắng, buồn bã không hiểu sao lại như vậy.
Lúc bấy giờ, giặc Ân tràn sang xâm lược nước ta. Chúng khiến cho đời sống nhân dân vô cùng khổ cực, tình cảnh đất nước lúc này đang ở thế “nghìn cân treo sợi tóc”. Nhà vua sai sứ giả đi rao tin khắp nơi, nhằm tìm người tài đứng lên cứu giúp đất nước. Sứ giả đi rao tin cuối cùng cũng đến làng Gióng. Nghe tiếng sứ giả, cậu bé bỗng nhiên cất tiếng gọi mẹ: “Mẹ ơi, mẹ hãy mời sứ giả vào đây cho con”. Thấy đứa con mình suốt bao nhiêu ngày tháng không nói, không cười bỗng dưng hôm nay lại cất tiếng gọi mẹ, hai ông bà lão mừng lắm, liền mời sứ giả vào ngay.
Khi sứ giả vào nhà, cậu bé đã ngay lập tức yêu cầu sứ giả hãy về chuẩn bị đủ những vũ khí để đi đánh giặc: Ngựa sắt, áo sắt và tấm giáp sắt để phá tan lũ giặc xâm lược. Sứ giả mừng rỡ vội về tâu lên cho nhà vua chuẩn bị. Nhà vua cũng đồng ý theo lời của cậu bé.Càng lạ lùng thay, Thánh Gióng từ khi gặp được sứ giả của nhà vua thì lớn nhanh như thổi, cơm cha mẹ thổi bao nhiêu cậu ăn cũng không đủ no, quần áo chẳng mấy chốc đều chật hết cả. Cậu bé chẳng mấy chốc hóa thành một chàng trai cao lớn, khỏe mạnh, khí thế ngút trời.
Chẳng bao lâu, nhà mua sai người đem đến đủ cả những thứ mà Gióng yêu cầu. Thánh Gióng lên đường đánh giặc ngay. Cậu đi đến đâu đánh bại quân giặc đến đấy. Khi kiếm gãy, Gióng liền nhổ một bụi cỏ bên đường, quật ngã bọn giặc ngoại xâm. Một hồi, ngựa của Thánh Gióng đã đến chân núi Sóc Sơn, Thánh Gióng liền cởi bộ giáp sắt đang mặc trên người ra mà bay thẳng lên trời.
Để nhớ đến công lao của Thánh Gióng, nhà vua đã cho người lập đền thờ của vị tướng này tại quê nhà của ông là làng Gióng. Cho đến nay, vẫn còn rất nhiều dấu tích năm xưa còn lưu lại và cứ tháng 4 hằng năm, người ta vẫn thường đến đền thờ Phù Đổng Thiên Vương để tưởng nhớ ông.
Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em – Mẫu 15
Vào đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức, nhưng lại không có con. Một hôm, bà lão ra đồng thấy một vết chân to khác thường. Thấy lạ, bà lão đặt bàn chân mình vào để ước chừng bàn chân mình nhỏ hơn bao nhiêu. Thấm thoát thời gian trôi đi, bà lão có thai, rồi mười hai tháng sau bà sinh được một bé trai khôi ngô tuấn tú. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay, đứa bé đã lên ba mà không biết nói, không biết cười, không biết đi, ai đặt đâu thì ngồi đấy.
Bấy giờ giặc Ân thế mạnh như chẻ tre tràn vào xâm lược nước ta. Nhà vua túng thế, bèn sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng loa của sứ giả, bỗng cất tiếng nói: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây”. Sứ giả vào, đứa bé bảo: “Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này”. Sứ giả lấy làm kinh ngạc và cũng tỏ ý vui mừng, vội về tâu với vua. Nhà vua chấp nhận và sai người ngày đêm làm đủ những vật mà chú bé yêu cầu.
Từ hôm gặp sứ giả, chú bé bỗng lớn nhanh như thổi. Cơm ăn không biết no, áo vừa mới mặc đã chật. Hai vợ chồng làm lụng cực nhọc mà không đủ nuôi con. Bà con xóm làng thấy thế, bèn xúm vào kẻ ít người nhiều nuôi chú bé.
Giặc Ân đã đến chân núi Trâu, tình thế đất nước như ngàn cân treo sợi tóc. Ai nấy đều lo lắng, sợ sệt. Vừa lúc, sứ giả mang đủ các thứ mà chú bé đã dặn. Chú bé vươn vai, trong phút chốc đã trở thành tráng sĩ thật oai phong, thật lẫm liệt. Tráng sĩ vỗ mạnh vào mông ngựa sắt, ngựa hí vang dội cả một vùng. Tráng sĩ mặc áo giáp cầm roi sắt nhảy lên lưng ngựa. Ngựa phi nước đại, phun lửa xông thẳng vào quân giặc hết lớp này đến lớp khác. Bỗng roi sắt bị gãy, tráng sĩ liền nhổ những bụi tre ven đường quất vào quân giặc.
Thế giặc hỗn loạn, tan vỡ. Đám tàn quân dẫm đạp lên nhau mà tháo chạy. Tráng sĩ đuổi quân giặc đến chân núi Sóc (Sóc Sơn) thì dừng lại, rồi một mình, một ngựa lên đỉnh núi, cởi áo giáp sắt để lại ngựa sắt và tráng sĩ bay lên trời. Để tưởng nhớ người tướng sĩ có công đánh tan giặc Ân xâm lược. Nhà vua phong là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ ngay tại quê nhà.
Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em – Mẫu 16
Vào thời Hùng Vương có một đôi vợ chồng tuy đã già nhưng mãi chưa có con. Vào một buổi sáng sớm khi lên nương làm rẫy, chợt thấy một dấu chân rất to in trên mặt đất, bà sửng sốt kêu lên:
– Ôi! Dấu chân của ai mà to thế này!
Thấy kì lạ, bà đưa chân mình vào ướm thử, về nhà bà liền có thai. Chẳng giống như bình thường, bà mang thai mười hai tháng mới sinh ra một bé trai và đặt tên là Gióng. Gióng lên ba tuổi mà chẳng biết nói biết cười.
Vào năm ấy, giặc Ân xâm lược nước ta. Quân giặc rất đông và hung hãn, đi đến đâu, chúng cướp bóc, tàn phá đến đấy. Quân của vua Hùng nhiều lần xuất trận nhưng không thể đánh thắng số lượng áp đảo của quân địch. Trước tình hình ấy, vua Hùng rất lo lắng, cử sứ thần đi khắp các vùng miền tìm người tài. Đến làng Gióng, cậu bé bỗng cất tiếng gọi mẹ xin cho đi đánh giặc: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con!”.
Gióng nói với sứ giá bằng giọng rõ ràng, dứt khoát: “Xin hãy nói với nhà vua làm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một cái áo giáp sắt”. Sứ giả ban đầu cũng hoài nghi, dù sao Gióng cũng chỉ là một đứa trẻ. Nhưng lúc ấy, có một con rồng không biết từ đâu bay đến rồi vút cao lên trời xanh, biết là điểm báo của trời, vội vàng về tâu lại với nhà vua. Từ hôm ấy, Gióng bỗng lớn nhanh như thổi, ăn bao nhiêu cũng không đủ, vươn vai trở thành một chàng trai khỏe mạnh, khôi ngô, tuấn tú. Những vật dụng cần thiết được mang đến, Gióng cùng trai tráng làng Phù Đổng ra trận đánh giặc. Đánh đến đâu, quân giặc khiếp sợ bỏ chạy đến đấy. Khí thế đang mạnh mẽ thì ngờ đâu kiếm gãy, Gióng nhanh trí nhổ một bụi tre bên đường, quật vào quân giặc tới tấp. Tướng giặc cùng đường phải giơ tay xin hàng, chiến thắng thuộc về nhân dân của nước Văn Lang. Lúc bấy giờ ngựa Gióng đã tiến đến chân núi Sóc Sơn. Gióng bèn cởi toàn bộ giáp rồi cả người lẫn ngựa bay thẳng lên trời.
Để tưởng nhớ công ơn của Gióng, vua Hùng cho lập đền thờ ở quê nhà và phong Gióng là Phù Đổng Thiên Vương. Hàng năm, nhân dân vẫn tổ chức lễ hội để du khách thập phương tìm về bái lễ.
Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em – Mẫu 17
Đó là vào thời Vua Hùng thứ sáu. Đất nước thật thanh bình, mọi người đều hưởng ấm no hạnh phúc. Thế nhưng vợ chồng già chúng tôi chứ cui cút trong gian nhà tranh vắng tiếng trẻ con. Một hôm, tôi đi ra đồng thấy một dấu chân khác lạ. Phần thì tò mò, phần thì vừa thấy thần báo mộng trong đêm, tôi đặt chân ướm thử. Không ngờ về nhà thụ thai.
Chờ hết chín tháng mười ngày vẫn chưa sanh, ông nhà tôi lo quá. Nhưng đến tháng mười hai thì vợ chồng tôi đã có con. Chao ôi, một đứa bé mặt mũi khôi ngô như một tiên đồng. Chúng tôi mừng lắm. Nhưng chăm chút hoài mà thằng bé vẫn cứ như lúc lọt lòng. Đã ba năm tuổi mà nó không biết đi, không biết nói, biết cười.
Rồi một hôm loa sứ giả truyền tin giặc Ân đã đến xâm phạm bờ cõi, vua Hùng đang kén chọn người tài giỏi ra công giết giặc. Thằng bé nhà tôi bỗng níu tay áo, và nó cất tiếng: “Mẹ ơi, mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con”. Hai vợ chồng tôi bàng hoàng nhìn nhau, tôi vội chạy ra mời sứ giả vào nhà. Thằng bé mắt long lanh và nói sang sảng như phán truyền: “Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt, áo giáp sắt, ta sẽ phá tan giặc!”. Sứ giả sửng sốt rồi kính cẩn chào chúng tôi ra về. Tôi và chồng tôi chạy lại ôm con mà mừng khôn xiết. Từ đó thằng bé lớn nhanh như thổi, cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc xong đã đứt chỉ. Bà con lối xóm biết chuyện họ rất phấn khởi ngày đêm tấp nập nấu cơm, đội ca, may vá cho thằng bé rất chu đáo. Ai cũng hy vọng Gióng sớm ra giết giặc trừ họa cho mọi người.
Giặc đã đến chân núi Châu Sơn. Mọi người hoảng hốt nhìn Gióng như cầu cứu. Cũng may nhà vua đã cho đưa đến con ngựa sắt, áo giáp sắt và roi sắt. Thằng bé bỗng đứng dậy vươn vai một cái, nó to lớn và mạnh mẽ khác thường. Nó mặc giáp sắt, cầm roi sắt và leo lên ngựa sắt. Nó vỗ vào mông ngựa, ngựa hét vang phun một luồng bão lửa về phía trước. Trông thằng Gióng giờ đây oai phong lẫm liệt như tướng nhà Trời. Nó khẽ gật đầu chào mọi người rồi phi như bay ra nơi có giặc.
Nghe mấy người đi theo Gióng, cùng Gióng giết giặc kể lại thì nó đã cầm roi sắt tả xung hữu đột vào giặc chết như rạ. Đang xông xáo như vậy thì roi sắt va vào núi và bị gãy. Gióng nhà tôi mới nhổ bụi tre bên đường quật một đám tan quân còn lại. Nó truy đuổi giặc đến núi Minh Sóc và tại đây có cởi áo giáp sắt để ngay ngắn trên tảng đá rồi cùng ngựa sắt bay về Trời.
Mọi người đã lập đền thờ ngay trong làng. Và vua Hùng cũng phong cho tôi là Phù Đổng Thiên Vương. Nghe nói ở Gia Bình có những bụi tre đằng ngà màu vàng óng. Chính ngựa Gióng đã phun lửa mà nó cháy sém như vậy đấy.
Và bà con có biết không? Những ao hồ chi chít ở địa phương ta là dấu chân của con ngựa sắt ghê gớm mà Gióng cưỡi đấy. Tôi cũng muốn lưu ý mọi người cái làng Cháy hiện nay sở dĩ có tên gọi như vậy là do ngựa Gióng phun lựa và đốt trụi cả một làng. Cũng may là bà con đã chạy giặc hết rồi không thì thật là thảm họa.
Vợ chồng ta rất tự hào vì đã có một đứa con dũng cảm giết giặc bảo vệ cuộc sống ấm no cho mọi người. Chúng tôi thật tự hào bởi mỗi lúc ra đường mọi người đều kính nể và nói: “Hai người ấy là cha mẹ của Phù Đổng Thiên Vương đó”. Đó bà con hãy chờ coi, thằng Gióng nhà tôi trước lúc bay về trời có nhắm rằng khi nào cha mẹ già yếu nó sẽ trở lại chăm sóc chúng tôi. Chúng tôi đang chờ và cái ngày ấy rồi sẽ đến thôi phải không bà con?
Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em – Mẫu 18
Vào thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng nghèo. Họ chăm chỉ làm lụng quanh năm nhưng tuổi đã cao mà vẫn chưa có được một mụn con. Một hôm, bà lão ra đồng thì nhìn thấy một vết chân to. Bà liền đặt chân vào ướm thử. Đến khi về nhà thì mang thai. Bà mang thai mười hai tháng mới sinh ra một cậu bé khôi ngôi. Cậu bé lên ba tuổi mà vẫn chưa biết nói biết cười.
Lúc bấy giờ, giặc Ân đến xâm lược nước ta. Nhà vua muốn tìm người tài đánh giặc cứu nước nên đã cử sứ giả đi rao khắp nơi. Khi đến làng Gióng thì kì lạ thay, cậu bé bỗng cất tiếng nói:
– Mẹ mời sứ giả vào đây cho con!
Sứ giả vào, cậu liền bảo với sứ giả về tâu với vua sắm cho một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt để đánh giặc. Từ sau hôm đó, cậu bé lớn nhanh như thổi, cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc mấy cũng không vừa. Hai vợ chồng làm bao nhiêu không đủ, phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Cả làng vui lòng góp gạo nuôi cậu bé, ai cũng mong cậu giết giặc cứu nước.
Giặc đánh đến nơi, vừa lúc sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến, bỗng cậu bé vươn vai biến thành tráng sĩ. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội, rồi phun lửa vào đám giặc. Giặc hoảng sợ bỏ chạy. Tráng sĩ phi ngựa đến đâu, dẹp tan quân giặc đến đó. Đến khi roi sắt gãy, tráng sĩ nhổ tre làm vũ khí. Quân giặc chết như ngả rạ.
Tráng sĩ đánh giặc xong cởi bỏ áo giáp sắt, cưỡi ngựa bay lên trời. Vua nhớ công ơn tôn là Phù Đổng Thiên Vương và cho lập đền thờ tại quê nhà. Những nơi ngựa phi qua để lại ao hồ. Rặng tre bị ngựa phun lửa cháy trở nên vàng óng còn có một làng bị ngựa phun lửa cháy được gọi là làng Cháy.
Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em – Mẫu 19
Vào thời Hùng Vương thứ sáu ở làng Gióng có hai vợ chồng nghèo. Họ chăm chỉ, hiền lành mà vẫn chưa có con.
Một hôm nọ, bà lão ra đồng thì nhìn thấy một vết chân lạ. Bà đặt chân vào ướm thử, đến khi về nhà thì mang thai. Mãi tới mười hai tháng sau mới sinh ra một cậu bé khôi ngôi. Cậu bé lên ba tuổi mà vẫn chưa biết nói biết cười, ai đặt đâu ngồi đấy.
Bấy giờ, giặc Ân sang xâm lược nước ta. Nhà vua muốn tìm ra người tài để giúp nước, liền sai sứ giả đi khắp nơi. Khi sứ giả đến làng Gióng, cậu bé nghe tiếng sứ giả liền nói với mẹ:
– Mẹ mời sứ giả vào đây cho con!
Cậu bé liền nói với sứ giả rằng hãy về tâu nhà vua rèn cho một con ngựa sắt, một chiếc áo giáp sắt và một thanh gươm sắt. Từ đó, cậu bé lớn nhanh như thổi, cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc mấy cũng không vừa. Hai vợ chồng làm bao nhiêu không đủ, phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Cả làng vui lòng góp gạo nuôi cậu bé, ai cũng mong cậu giết giặc cứu nước.
Quân giặc đánh đến nơi cũng là lúc sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến. Gióng vươn vai thành tráng sĩ. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội, rồi phun lửa vào đám giặc. Giặc hoảng sợ bỏ chạy. Tráng sĩ phi ngựa đến đâu, dẹp tan quân giặc đến đó. Gươm gãy, tráng sĩ nhổ tre làm vũ khí. Quân giặc chết như ngả rạ.
Giặc tan, tráng sĩ một mình một ngựa lên đỉnh núi Sóc Sơn rồi bay thẳng về trời. Nhân dân lập đền thờ để tưởng nhớ công ơn. Những nơi ngựa phi qua để lại ao hồ. Rặng tre bị ngựa phun lửa cháy trở nên vàng óng còn có một làng bị ngựa phun lửa cháy được gọi là làng Cháy.
Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em – Mẫu 20
Từ thuở còn trong nôi, em đã được bà kể cho nghe nhiều câu chuyện lắm. Nhưng câu chuyện mà em nhớ nhất là truyện Thánh Gióng.
Truyện kể rằng: Đời Hùng Vương thứ sáu, ở một làng kia có hai vợ chồng ông lão, chăm chỉ làm ăn lại có tiếng là phúc đức. Nhưng đến lúc sắp già mà vẫn chứa có nấy một mụn con. Một ngày kia bà vợ ra đồng trông thấy một bước chân to, bèn đặt chân mình vào ướm thử. Về nhà bà mang thai. Nhưng không ngờ, khác với người thường, đến mười hai tháng sau bà mới sinh ra một cậu bé mặt mũi khôi ngô. Cậu bé ra đời là niềm mơ ước cả đời của hai vợ chồng nên ông bà mừng lắm. Nhưng chẳng biết làm sao, dù đã ba tuổi nhưng cậu bé Gióng (tên cậu do ông bà đặt) vẫn chẳng biết nói, biết cười, cứ đặt đâu nằm đó. Ông bà buồn lắm.
Cũng năm ấy, giặc Ân sang xâm lược bờ cõi nước ta. Chúng gây bao nhiêu tội ác khiến dân chúng vô cùng khổ sở. Thế giặc mạnh, nhà vua bèn sai người đi khắp nước cầu hiền tài. Đi đến đâu sứ giả cũng rao:
– Ai có tài, có sức xin hãy ra giúp vua cứu nước.
Nghe tiếng rao, cậu Gióng đang nằm trên giường bèn cất tiếng:
– Mẹ ơi! Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con.
(Ngày xưa khi để cho em nghe đến chỗ này, bao giờ bà cũng thêm vào: Tiếng nói đầu tiên của cậu Gióng là tiếng nói yêu nước đấy. Phải nhớ lấy cháu ạ!)
– Nghe tiếng con, vợ chồng lão nông dân thấy lạ đành mời sứ giả vào nhà. Cậu Gióng liền yêu cầu sứ giả về chuẩn bị ngay: roi sắt, ngựa sắt, áo giáp sắt để cậu đi phá giặc.
Càng lạ hơn, từ lúc cậu Gióng gặp sứ giả, cậu cứ lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cậu cũng không no, áo vừa mặc xong đã sứt chỉ. Vợ chồng ông bà nọ đem hết gạo ra nuôi mà không đủ bèn nhờ hàng xóm cùng nuôi cậu Gióng. Trong làng ai cũng mong cậu đi giết giặc cứu nước nên chẳng nề hà gì.
Giặc đã đến sát chân núi Trâu. Người người hoảng sợ. Cũng may đúng lúc đó, sứ giả mang những thứ cậu Gióng đã đề nghị đến nơi. Cậu bèn vươn vai đứng dậy như một tráng sỹ, khoác vào áo giáp, cầm roi rồi nhảy lên ngựa phi thẳng tới trận tiền. Bằng sức mạnh như cả ngàn người cộng lại, chẳng mấy chốc cậu đã khiến lũ giặc kinh hồn bạt vía. Đang đánh nhau ác liệt thì roi sắt gãy, cậu bèn nhổ ngay từng bụi tre ở bên đường quật vào lũ giặc. Quân giặc bỏ chạy toán loạn nhưng rồi cũng bị tiêu diệt không sót một tên.
Dẹp giặc xong, cậu Gióng không quay về kinh để nhận công ban thưởng mà thúc ngựa đến núi Sóc, bỏ lại áo giáp sắt, một người một ngựa bay thẳng về trời. Nhiều đời sau người ta còn kể, khi ngựa thét lửa, lửa đã thiêu trụi một làng nay làng ấy gọi là làng Gióng. Những vết chân ngựa ngày xưa nay đã thành những ao hồ to nhỏ nối tiếp nhau.
Câu chuyện về người anh hùng Thánh Gióng đã không chỉ còn là niềm yêu thích của riêng em, mà nó đã là niềm say mê của bao thế hệ học trò.
Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em – Mẫu 21
Ngày xưa, vào thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng nổi tiếng là chăm chỉ, phúc đức. Hai ông bà mong ước có một đứa con. Một hôm, người vợ ra đồng trông thấy một vết chân rất to. Bà liền đặt chân vào ướm thử xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà lại mang thai. Mười hai tháng sau sinh ra một cậu bé. Nhưng kì lạ thay, cậu bé lên ba tuổi vẫn chưa biết nói, biết cười, ai đặt đâu thì nằm đấy.
Lúc bấy giờ, giặc Ân đến xâm lược nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua vô cùng lo lắng, sai sứ giả đi tìm người tài giúp nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng cất tiếng nói:
– Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con!
Sứ giả vào, cậu liền bảo với sứ giả:
– Ông về tâu với nhà vua sắm cho một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này.
Kì lạ hơn, từ sau hôm đó, cậu bé lớn nhanh như thổi, cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc mấy cũng không vừa. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ, phải nhờ đến sự giúp sức của bà con hàng xóm. Ai cũng vui vẻ giúp vì mong muốn cậu bé đánh giặc cứu nước.
Giặc đến chân núi Trâu. Thế nước rất nguy, vừa lúc sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến. Cậu bé vùng dậy, vươn vai thành tráng sĩ. Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội, rồi phun lửa vào đám giặc. Giặc hoảng sợ bỏ chạy. Tráng sĩ phi ngựa đến đâu, dẹp tan quân giặc đến đó. Bỗng roi sắt gãy, tráng sĩ nhổ bụi tre cạnh đường quật vào quân giặc. Giặc tan vỡ, đám tàn quân giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc.
Đến đây, một mình tráng sĩ cưỡi ngựa lên đỉnh núi. Tráng sĩ cởi bỏ áo giáp sắt, cưỡi ngựa bay lên trời. Vua nhớ công ơn tôn là Phù Đổng Thiên Vương và cho lập đền thờ tại quê nhà. Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là làng Gióng. Những nơi ngựa phi qua để lại ao hồ. Rặng tre bị ngựa phun lửa cháy trở nên vàng óng còn có một làng bị ngựa phun lửa cháy được gọi là làng Cháy.
Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em – Mẫu 22
Vào thời Hùng Vương thứ sáu, tại làng Gióng có hai vợ chồng hiền lành, nổi tiếng là phúc đức. Tuổi đã cao nhưng họ vẫn chưa có con.
Một hôm, người vợ ra đồng trông thấy một vết chân rất to. Bà liền đặt chân vào ướm thử. Về nhà thì mang thai. Đến mười hai tháng sau sinh ra một cậu bé mặt mũi khôi ngô, tuấn tú. Nhưng ba tuổi mà cậu vẫn không biết nói, biết cười. Ai đặt đâu thì cậu ngồi đấy.
Lúc bấy giờ, giặc Ân xâm lược nước ta, thế giặc mạnh khiến nhà vua rất lo lắng. Nhà vua cho sứ giả đi khắp nơi tìm người tài để giúp nước. Đến làng Gióng, cậu bé nghe tiếng rao của sứ giả, liền cất tiếng nói đầu tiên, bảo mẹ:
– Mẽ hãy ra mời sứ giả vào đây cho con!
Sứ giả vào đến nơi, cậu liền nói:
– Ông về tâu với nhà vua đúc cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt. Ta sẽ đánh tan lũ giặc này.
Sứ giả nghe xong thì vui mừng lắm, liền vội vàng về tâu lại với nhà vua. Nhà vua liền sai thợ rèn ngày đêm làm những món đồ cậu bé yêu cầu. Kể từ hôm đó, cậu bé lớn nhanh như thổi. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi cậu bé, liền nhờ bà con trong xóm giúp đỡ.
Chẳng mấy chốc, giặc đã đến chân núi Trâu. Thế nước đang lúc lâm nguy. Đúng lúc đó thì sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến. Cậu bé vùng dậy, vươn vai thành tráng sĩ. Tráng sĩ mặc áo giáp sắp, cầm roi sắt rồi cưỡi lên lưng ngựa. N gựa hí dài mấy tiếng vang dội, phun lửa vào quân giặc. Chúng hoảng sợ lắm, bỏ chạy toán loạn. Tráng sĩ phi ngựa đến đâu, quân giặc bại trận đến đó. Roi sắt gãy, tráng sĩ liền nhổ bụi tre đánh tan quân giặc. Sau khi thua trận, đám tàn quân bỏ chạy.
Tráng sĩ cưỡi ngựa một mình lên đỉnh núi. Đến đây, tráng sĩ cởi bỏ áo giáp sắt, cưỡi ngựa bay lên trời. Về sau, để tưởng nhớ công ơn, Vua Hùng phong là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ tại quê nhà. Những nơi ngựa phi qua để lại ao hồ. Rặng tre bị ngựa phun lửa cháy trở nên vàng óng còn có một làng bị ngựa phun lửa cháy được gọi là làng Cháy.
*********************
Hy vọng với 22 bài văn mẫu Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em lớp 6 hay nhất trên đây, các em sẽ hoàn thành tốt bài tập làm văn của mình. Thầy cô chúc các em đạt điểm cao trong thời gian sắp tới.
Đăng bởi: THPT Ngô Thì Nhậm
Chuyên mục: Giáo Dục