Với 9 bài văn mẫu Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh do THPT Ngô Thì Nhậm biên soạn sẽ là tài liệu quý giúp các em biết cách làm bài văn kể truyện, tránh lạc đề khi viết văn.
Qua những bộ phim, những câu chuyện kể chắc hẳn các em đã từng chứng kiến (nghe kể) đến những trận chiến quyết liệt, đó có thể là cuộc chiến giữa những lực lượng đối lập, cũng có thể là cuộc chiến của chính dân tộc Việt Nam với các thế lực ngoại xâm. Hãy kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh.
Đề bài: Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh
Dàn ý Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh
1. Mở bài
Giới thiệu về trận chiến ác liệt mà em định kể (em đã đọc, đã nghe kể hoặc xem trên màn ảnh)
2. Thân bài
Mở đầu và hoàn cảnh xảy ra trận chiến ác liệt:
- Câu chuyện diễn ra vào không gian, thời gian nào?
- Nguyên nhân dẫn đến trận chiến ác liệt?
Diễn biến trận chiến
- Sự chuẩn bị của quân ta
- Tinh thần chiến đấu, sự chỉ huy tài tình của quân ta
- Miêu tả thế trận, quang cảnh trận đánh ác liệt
Kết quả trận chiến
- Quân ta giành thắng lợi hoàn toàn
- Quân địch thua cuộc thảm bại.
3. Kết bài
Nêu cảm nghĩ của em về trận chiến
Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh, mẫu số 1
Trải hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước dân tộc ta đã anh dũng quật cường chống lại rất nhiều thế lực ngoại xâm, nói về những trận chiến vĩ đại nhất của lịch sử dân tộc không thể không kể đến trận chiến trên sông Bạch Đằng năm 938.
Cuối năm 938 quân Nam Hán lấy cớ sang xâm lược nước ta lần hai, chúng chọn con đường biển để tấn công vào nước ta. Nắm được tình hình, Ngô Quyền đã tận dụng thời cơ và địa thế của sông Bạch Đằng để bày binh bố trận, ông cho quân lính đóng cọc gỗ ngầm và lợi dụng thuỷ triều lên xuống để làm bẫy hạ gục quân địch. Khi địch vào đến cửa sông, Ngô Quyền cho toán quân nhỏ ra đánh nhử, quân Nam Hán hăm hở đuổi theo mà không biết đã đi qua bãi cọc ngầm, đến khi nước triều rút xuống, quân ta đánh quật ngược trở lại, quân địch trở tay không kịp, tháo chạy không xong. Thuyền địch bị mắc cạn trên bãi cọc ngầm, quân địch bỏ thuyền chạy xuống sông, quân thì bị giết quân thì chết đuối. Quân ta tấn công rất quyết liệt, con trai vua Nam Hán Hoằng Tháo cũng bị giết, vua Nam Hán hốt hoảng ra lệnh rút quân, quân ta toàn thắng.
Có thể nói chiến thắng này giống như một mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh bảo vệ đất nước của dân tộc ta. Em hy vọng sẽ có một ngày được đến thăm trận địa cọc ngầm trên sông Bạch Đằng để thấy được những chứng tích hào hùng cho tinh thần bất khuất, quật cường của quân ta.
Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh, mẫu số 2
Em đã từng được nghe rất nhiều những câu chuyện về lịch sử nước nhà, về những người anh hùng hào kiệt. Một trong những câu chuyện đó là cuộc khởi nghĩa của Lý Bí vào mùa xuân năm 542.
Lý Bí vốn là người gốc Trung Quốc nhưng sang nước ta lập nghiệp và từ lâu đã có lòng căm ghét bọn đô hộ phương Bắc. Nhà Lương đô hộ nước ta và siết chặt ách đô hộ bằng cách phân biệt đối xử với người Việt, chỉ có tôn thất nhà Lương và những người dòng họ lớn mới được giữ chức vụ quan trọng. Trước những chính sách cai trị hết sức tàn bạo cùng với hàng trăm thứ thuế vô lý, Lý Bí vốn làm quan giữ chức chỉ huy quân đội ở Đức Châu (Nghệ An – Hà Tĩnh) vì căm ghét đã từ quan về ở ẩn và ngấm ngầm lên kế hoạch cùng các hào kiệt trong vùng để nổi dậy. Khi Lý Bí phất cờ khởi nghĩa ở quê hương Thái Bình (mạn Sơn Tây) vào mùa xuân năm 542 đã được rất đông đảo hào kiệt khắp nơi hưởng ứng, nhờ đó mà chỉ trong chưa đầy ba tháng quân ta đã giành lại chủ quyền khắp các quận huyện. Trước sự hùng mạnh của nghĩa quân Lý Bí nhà Lương đã phải đưa quân sang đàn áp, nhưng quân ta lại chủ động lật ngược tình thế chủ động kéo quân lên phương bắc đánh bại quân Lương. Đến năm 543 quân Lương lại tiếp tục kéo quân sang đàn áp và quân ta lại một lần nữa cho thấy sức mạnh của mình, đánh một trận ác liệt khiến cho quân nhà Lương mười phần thì chết đến bảy, tám phần. Cuối cùng các tướng địch đã bị giết gần hết, Lý Bí lên ngôi vua lấy hiệu là Lý Nam Đế, thành lập nhà nước Vạn Xuân.
Cuộc khởi nghĩa của Lý Bí em cảm nhận được sự đồng lòng, ý chí đấu tranh kiên cường của nhân dân ta, vì căm ghét bọn đô hộ mà quyết tâm đi theo khởi nghĩa, quyết tâm giành lại độc lập, tự chủ.
Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh, mẫu số 3
Trong chuyến đi tham quan tại đền thờ Hai Bà Trưng tại huyện Mê Linh – Đông Anh – Hà Nội, em đã được nghe kể lại cuộc khởi nghĩa anh hùng của hai chị em Trưng Trắc – Trưng Nhị.
Trưng Trắc và Trưng Nhị là hai chị em trong một gia đình dòng dõi Hùng Vương, từ lâu đã ngầm liên kết với các thủ lĩnh trên khắp đất nước để chờ thời cơ nổi dậy giành lại chính quyền. Vào mùa xuân năm 40 cuộc khởi nghĩa nổ ra, với lòng căm thù giặc sâu sắc, tinh thần khởi nghĩa quật cường, dũng cảm, quyết liệt, quân ta nhanh chóng đánh bại kẻ thù, chiếm lại Mê Linh rồi đánh tiếp đến Cổ Loa, Luy Lâu. Quân ta đi đến đâu quân địch sợ hãi đến đó, không có sức mạnh nào có thể đánh bại sự đoàn kết đồng lòng của nghĩa quân, quân ta đánh cho giặc tan tác, dẫm đạp lên nhau mà tháo chạy, Tô Định sợ hãi đến mức phải bỏ thành, cắt tóc, cạo râu, giả làm người khác để lẩn trốn về Trung Quốc. Quân của ta tiếp tục tiến đánh quân Hán ở các quận huyện khác và đều giành được thắng lợi lẫy lừng.
Thật tự hào khi dân tộc ta có những vị nữ tướng tài ba, giỏi giang và đầy bản lĩnh như Hai Bà Trưng, các bà đã đánh tan quân thù, làm rạng danh con cháu vua Hùng.
Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh, mẫu số 4
Xuyên suốt chiều dài lịch sử, tinh thần bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc ta là một trong số những minh chứng tiêu biểu cho những giá trị vững bền và bất diệt trước vòng xoáy “một đi không trở lại” của thời gian. Điều này đã được in đậm dấu ấn trong những trang sử vẻ vang của dân tộc qua những trận chiến đối đầu với giặc ngoại xâm đầy khốc liệt. Trong suốt chiều dài lịch sử hào hùng của dân tộc ta, chiến thắng của Ngô Quyền trước quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938 đã mở ra một trang sử mới cho dân tộc, đánh dấu sự kết thúc và chấm dứt hơn một nghìn năm chế độ phong kiến phương Bắc đô hộ nước ta.
Cuộc chiến đấu trên sông Bạch Đằng tuy diễn ra vào năm 938 nhưng được nhen nhóm và bắt nguồn từ một sự kiện diễn ra vào năm 931. Lúc bấy giờ, nước ta chưa có quốc hiệu chính thức và được gọi với tên là Tĩnh Hải quân. Trước sự đàn áp của quân Nam Hán – một trong số mười nước lớn mạnh và tôn xưng là “Ngũ đại Thập quốc”, người anh hùng Dương Đình Nghệ đã lãnh đạo nhân dân đứng lên chống lại quân Nam Hán. Sau chiến thắng này, Dương Đình Nghệ tự xưng là Tiết độ sứ và và giành được quyền tự chủ cho Tĩnh Hải quân. Tuy nhiên, 6 năm qua đi, binh biến bất ngờ xảy ra, để thỏa mãn tham vọng về quyền lực, một nha tướng của Dương Đình Nghệ là Kiều Công Tiễn đã làm phản để cướp ngôi Tiết độ sứ. Ngô Quyền vốn là một tướng sĩ dưới trướng Dương Đình Nghệ, bất bình trước hành động phản bội của Kiều Công Tiễn đã tập hợp một số binh lính trung thành và nghĩa khí để trừng trị, tiêu diệt kẻ cướp ngôi. Lúc bấy giờ, Kiều Công Tiễn tuy đã trở thành Tiết độ sứ nhưng lại hết sức lo sợ trước đội quân của Ngô Quyền, vì thế mà y đã cầu cứu sự giúp đỡ của quân Nam Hán để bảo vệ tính mạng cũng như quyền lực của bản thân. Hành động này của hắn đã khiến cho quân Nam Hán một lần nữa đặt bước chân xâm lược lên bờ cõi nước ta. Lưu Nghiễm – vua Nam Hán đã cử con trai thứ 9 là Lưu Hoằng Tháo thống lĩnh và đưa quân tiến vào nước ta. Đó chính là bối cảnh rộng diễn ra cuộc chiến đấu trên sông Như Nguyệt.
Đến năm 938, cuộc chiến đấu chính thức diễn ra với hai sự kiện chính là Ngô Quyền giết chết kẻ phản bội Kiều Công Tiễn và đánh bại quân Nam Hán. Ngay sau khi tập hợp một đội quân bao gồm những binh lính và tướng sĩ trung thành, Ngô Quyền đã nhanh chóng cô lập và tiệu diệt Kiều Công Tiễn, lúc này quân Nam Hán với danh nghĩa bảo vệ Kiều Công Tiễn vẫn chưa tiến vào biên giới nước ta.
Với âm mưu nhanh chóng chiếm lại Tĩnh Hải quân (tên gọi của đất nước ta thời bấy giờ), vua Nam Hán đã chỉ thị Lưu Hoằng Tháo thực hiện chiến lược đánh nhanh thắng nhanh bằng việc đưa các chiến thuyền tiến vào sông Bạch Đằng. Trước tình thế này, Ngô Quyền đã bình tĩnh phân tích điểm mạnh của yếu của địch. Ông nắm rõ việc giết chết Công Tiễn trước đã chặt đứt đi cánh tay nội ứng của địch, khó khăn duy nhất của quân dân ta lúc này chính là những chiến thuyền mạnh mẽ và to lớn của chúng. Vì thế, ông đã bàn bạc với các tướng lĩnh để diệt trừ điểm mạnh này của kẻ địch. Ngô Quyền đã dựa vào thế nước cũng như đặc trưng thủy triều lên xuống của dòng sông Bạch Đằng để đưa ra kế sách chống địch. Những chiếc cọc lớn có bịt sắt nhọn đã được chế tạo và đóng xuống sông dưới mệnh lệnh của Ngô Quyền. Lúc nước lên cao, thủy triều trở thành chiếc màn che hoàn hảo khiến những chiếc cọc được ngụy trang một cách khéo léo. Ngô Quyền đã chỉ huy một đội quân dụ quân địch vào khu vực thượng lưu con sông – nơi mà những chiếc cọc bịt đầu sắt đang ẩn dưới làn thủy triều. Hoằng Tháo vốn hiếu thắng, chưa có kinh nghiệm chiến đấu, lại thấy quân ta sử dụng phương tiện là những chiếc thuyền nhẹ, nên đã vội vàng cho quân đuổi theo. Đợi lúc thủy triều rút hẳn, những chiếc cọc bịt đầu sắt nổi lên chọc thủng những chiến thuyền của quân địch, Ngô Quyền lập tức hạ lệnh cho quân ta phản công, và kết quả đã dành chiến thắng vang dội, Lưu Hoằng Tháo bỏ mạng và hơn một nửa binh sĩ của quân Nam Hán tử trận. Vua Nam Hán là Lưu Cung đang tiếp ứng ở biên giới cũng không kịp xoay sở trước thất bại này và ngậm ngùi gom đám tàn binh về nước.
Chiến thắng đầy hiển hách của quân dân ta trước đội chiến thuyền và đội quân hùng mạnh của quân Nam Hán đã để lại những bài học lịch sử vô cùng sâu sắc. Trước hết, nó đã thể hiện rõ tầm nhìn chiến lược và vai trò lịch sử của người anh hùng Ngô Quyền. Nhờ nắm rõ địa thế nước ta cùng tài mưu lược, ông đã đề ra một chiến lược đúng đắn, đánh tan âm mưu xâm lược và đô hộ nước ta của quân Nam Hán. Không những vậy, sau chiến thắng này, Ngô Quyền đã lên ngôi vua vào năm 939, lấy hiệu là Ngô Vương, lập ra nhà Ngô và chọn Cổ Loa làm nơi đóng đô, mở ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc ta sau hơn một nghìn năm Bắc thuộc. Trận chiến hiển hách này còn thể hiện rõ ý chí cùng tinh thần bất khuất, kiên cường chống giặc ngoại xâm, bảo vệ giang sơn bờ cõi của quân và dân ta và làm ngời sáng hơn nữa ngọn lửa yêu nước luôn rực cháy trong trái tim của mỗi một con người Việt Nam.
Chiến thắng trên sông Bạch Đằng vào năm 938 không những lưu danh sử sách mà còn được ghi nhận trong rất nhiều tác phẩm văn học. Dưới ngòi bút của tác giả Nguyễn Trãi, trận chiến này trở thành ví dụ điển hình cho việc khẳng định sự thất bại tất yếu của giặc ngoại xâm: “Lưu Cung tham công nên thất bại” (trích “Bình Ngô đại cáo”). Thông qua những chiến công này, chúng ta càng hiểu rõ và tự hào hơn nữa về những trang sử đầy vẻ vang của dân tộc.
Văn tự sự là dạng làm văn kể chuyện hay tường thuật lại những sự việc hay câu chuyện cho người nghe và người đọc hiểu được. Bên cạnh bài làm văn Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh, học sinh và giáo viên tham khảo thêm những bài làm văn mẫu như Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong truyện đó Kể lại một lần em cùng bố, mẹ (hoặc anh, chị) đi thăm mộ người thân trong ngày lễ, tết, Kể về một anh hùng chống ngoại xâm mà em biết, Kể về một người có ý chí nghị lực mà em biết hoặc được nghe kể, Kể lại một trận thi đấu bóng đá rất nhiều những bài văn mẫu hay khác các bạn cùng theo dõi nhé.
Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh, mẫu số 5
Kể lại trận chiến Bạch Đằng ác liệt năm 1288
Đêm đã rất khuya…
Ngoài trời, những vệt sáng mờ mờ đầu tiên của một ngày mới đã xuất hiện. Trong những xóm làng gần đó đã cất lên thưa thớt vài ba tiếng gà gáy vang vọng.
Bạn đang xem: Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh
Sự yên lặng bao phủ toàn doanh trại. Các binh sĩ đều đã đi ngủ cả, chỉ nghe tiếng thở đều nhè nhẹ, tiếng cuốc kêu não nuột vang trong đêm vắng. Nhưng trong bóng tối và cái tĩnh mịch ấy, ở một góc trại, vẫn còn một ánh đèn sáng.
Bên chiếc đèn dầu gần cạn chỉ còn le lói, vị chủ tướng đang ngồi trầm ngâm, mắt đăm đăm nhìn về phía trước. Trên bàn, cuốn binh thư đọc dở nằm im như chờ đợi. Ánh sáng yếu ớt hắt lên khuôn mặt suy tư, đôi mày nhíu lại, chòm râu đen và đôi mắt sáng rực như hai vì sao. Đó chính là Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo. Làm cách nào ? Làm cách nào ? Trong đầu vị chủ tướng vẫn trăn trở câu hỏi. Chỉ còn một ngày nữa thôi, vào rạng sáng, đoàn thuyền chiến của Ô Mã Nhi sẽ xuôi dòng Bạch Đằng để rút về nước. Đây là thời cơ thuận lợi để quân ta phản công, để giải phóng đất nước. Thời gian đã gấp rút lắm rồi. Vậy mà ông chưa nghĩ ra cách đánh nào thích hợp, đảm bảo chiến thắng cho quân ta. Đánh địch đã khó nhưng chiến thắng chúng còn khó khăn hơn rất nhiều lần !
Trần Hưng Đạo chợt nhớ bài học lịch sử xa xưa – năm 938, Ngô Quyền đã đánh thắng quân Nam Hán… Đúng rồi, chỉ có cách đánh của Ngô Quyền mới thật là thượng sách. Trong ông luồng nhiệt huyết lại bốc cháy bừng bừng, ông thầm cảm ơn vị dũng tướng họ Ngô đã cho ông một ý tưởng. Vừa lúc đó, gà gáy báo trời đã sáng hẳn.
Trần Hưng Đạo ban lệnh toàn quân vào rừng đẵn gỗ làm cọc. Dân chúng cũng hồ hởi đì theo giúp. Họ đẵn những cây gỗ chắc khoẻ như lim hay táu. Cây đổ ầm ầm. Khắp nơi chỉ nghe tiếng rìu, tiếng cưa ồn ào, náo động. Người ta dùng dao, dùng rìu chuốt nhọn đầu những thanh gỗ thành những cọc nhọn cao quá đầu người, có cái cao đến hai trượng sáu, to đến nỗi một vòng ôm mới đủ. Đầu nhọn được lấy sắt bọc lại, lúc này mỗi chiếc cọc trở thành một thứ vũ khí vô cùng lợi hại cho những gì sẽ va vào nó.
Nhìn cảnh làm việc như vậy, Trần Hưng Đạo rất hài lòng. Ông sung sướng ngắm nhìn những chiếc cọc nhọn mà tin tưởng vào chiến thắng sắp tới. Sau khi cọc đã đủ, Trần Hưng Đạo cho đóng cọc xuống khúc sông gần ngã ba sông Chanh. Đây quả là một địa thế thuận lợi do thuỷ triều lên xuống nhanh và mạnh.
Tại đây, những người lặn giỏi như Yết Kiêu lại có dịp trổ tài. Ở trên, những thanh niên khoẻ mạnh ngồi trên thuyền, đưa những chiếc cọc nặng xuống dưới, cắm sâu vào lòng sông. Còn dưới mặt nước, những người thợ lặn đã chờ sẵn. Họ đỡ những chiếc cọc, thận trọng chỉnh lại hướng và độ vững chắc trước khi ngoi lên. Người đâm, kẻ đỡ thật ồn ào náo nhiệt.
Trên bờ, Trần Hưng Đạo ngắm nhìn trận địa cọc đang dần hình thành. Lúc này thuỷ triều đang rút, ta có thể nhìn thấy những cọc nhọn hoắt nhô lên trông thật nguy hiểm. Cọc này sát với cọc kia như bàn chông, đứng vững như bàn thạch, không hề suy chuyển khi bị những cơn sóng to ập vào. Ông mỉm cười sung sướng rồi đích thân chuẩn bị ở hai bên bờ. Những toán quân khoẻ mạnh, nhanh nhẹn được chọn ra. Những bùi nhùi, đá lửa, rơm rạ, dầu cùng những thứ dễ cháy đã được bà con giấu sẵn vào luồng lạch hoặc hai bên bờ những nơi lau lách um tùm rậm rạp gần đó để phóng hoả khi cần thiết.
Người làm việc nọ, kẻ giúp việc kia, thật khẩn trương nhưng vẫn chu đáo, cẩn trọng. Họ thi nhau đóng những chiếc thuyền nhỏ, nhẹ, bằng gỗ chuẩn bị cho cuộc tiến công.
Giữa lúc ấy, trên bờ những quân sĩ còn lại cũng không chịu ngồi yên. Họ rèn đúc khí giới, mài dao thêm sắc, mài gươm thêm nhọn, chuẩn bị cung tên. Nhóm thì đấu vật, nhóm thì đấu gươm. Tinh thần hăng hái không kể đầu cho xiết.
Thấm thoát đến chiều.tối thì mọi việc cũng đã xong. Những quân sĩ vẫn chưa ngủ. Họ ngồi lại nghe một người đọc lại bài hịch của Hưng Đạo Vương: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng…”. Lời hịch vang lên khiến lòng người rạo rực, bừng bừng trong máu, trong tim. Doanh trại lại ồn ào tiếng múa gươm, múa kiếm sôi động nhộn nhịp. Tưởng như đang diễn ra một cuộc chiến đấu.
Trống đã điểm canh hai, tờ mờ sáng, bỗng gần cửa sông Bạch Đằng xuất hiện một đoàn thuyền chiến dài dằng dặc làm chật cả khúc sông. Những cánh buồm làm thẫm màu nước. Chiêng trống vọng ra ầm ầm như sấm, như sét… Quanh hai bên bờ không một bóng người. Lúc này thuỷ triều đang dâng lên cao, chỉ thấy mênh mông màu nước trắng xoá, những bụi ỉau lách ven bờ. Thỉnh thoảng vọng lại vài tiếng chim thưa thớt.
Trong thuyền, Ô Mã Nhi đang nằm ung dung trên đệm gấm, mừng rỡ nói với các tướng: “Quân Trần thấy ta là sợ mất mật, còn sức đâu mà đánh !”. Y lại càng yên tâm hơn vì sắp ra đến biển rồi, quân ở đâu ra cũng khó cản đường một đoàn thuyền đông đúc! Thuyền chậm lại dần.
Bỗng dậy lên tiếng trống, tiếng chiêng đầy náo nức, vọng hết cả mặt sông. Từng đàn chim bay loạn xạ từ những bụi cây. Ô Mã Nhi giật mình chạy ra ngoài nhìn. Tiếng trống vẫn cứ rộn rã. Quân Nguyên đang ngơ ngác, bỗng thấy trước mặt xuất hiện một đoàn, thuyền nhẹ. Trên con thuyền dẫn đầu là tướng quân Nguyễn Khoái, tay cầm một thanh đao, thét lớn: “Ồ Mã Nhi, ta chờ mày ở đây lâu rồi, mày chạy đâu cho thoát”. Nguyễn Khoái đứng hiên ngang, thân thể cao lớn, vững như tượng đồng, cùng quân sĩ tấp vào thuyền giặc. Tiếng trống vang vang. Những mũi tên bay từ đâu tới tấp vào quân giặc. Ô Mã Nhi giơ khiên lên đỡ, cùng người tướng là Phàn Tiếp xông ra: Nhưng vừa đánh nhau một lúc, bỗng Nguyễn Khoái thét lớn với quân sĩ: “Anh em, sức giặc còn mạnh, người còn đông, chưa thể hạ được, chúng ta rút lui’!”. Quân sĩ dạ ran. Rồi đoàn thuyền nhỏ chèo nhanh trở lại.
Thấy vậy, Ô Mã Nhi hết sức hí hửng. Y cười nói với các tướng sĩ: “Tưởng quân Trần như thế nào, chứ hoá ra chỉ là một lũ chuột nhắt, vừa đánh đã chạy”. Rồi y dẫn thuỷ quân đuổi theo. Cứ thế, chẳng mấy chốc, thuyền giặc đã lọt vào trận địa mai phục.
Vừa lúc ấy, thuỷ triều bắt đầu rút. Từng đợt sóng không còn mạnh mẽ như trước, lăn nhanh về phía bờ biển. Màn nước trắng xoá vừa rút, đã lộ ra những cái cọc nhọn. Mới đầu chỉ là phần mũi rồi dần dần lộ ra cả phần đầu nhọn hoắt, cứng cáp. Cứ như không phải nước đang rút mà là cọc đang nhô dần lên vậy. Thấy đã đến thời điểm, Nguyễn Khoái ra lệnh cho ba quân rút chạy. Ô Mã Nhi vẫn còn chưa biết, lập tức đuổi theo. Nhưng kìa, hàng ngàn chiếc cọc nhọn đă lộ nguyên hình trên khúc sông, đồng loạt va, đập vào chiến thuyền của giặc. Lúc này tên tướng giặc mới biết thì đã muộn, toàn bộ quân sĩ của chúng, đã lọt vào ổ phục kích của quân dân nhà Trần. Thuyền của giặc bây giờ giống như cá nằm trên lưới. Nhiều chiếc thuyền đã bị bãi cọc dồn cả lại, xô vào nhau vỡ toác. Nhiều chiếc bị những chiếc cọc nhọn hoắt đâm thủng, nước chảy vào ào ào. Cảnh tượng thật là bi đát ! Quân giặc xúm lại cố gắng tát nước ra khỏi thuyền, nhưng vô ích. Số khác lo thuyền vỡ đã nhảy vội xuống sông, đang chơi vơi trên dòng nước. Vài chiếc còn nguyên vẹn thì vẫn chưa hết kinh hoàng.
Ô Mã Nhi cùng Phàn Tiếp đang còn lúng túng không biết làm thế nào thì bất ngờ thấy trên dòng nước là những bè lửa đang trôi về phía chúng. Đó là những bè lửa do nhân dân thả xuống từ những lạch nước gần đấy, len lỏi vào giữa đội hình cửa giặc. Lửa lại gặp gió càng thêm đượm, thuyền quân Nguyên cháy hừng hực như một ngọn đuốc sáng rực cả khúc sông. Tiếng kêu khóc như ri. Lúc ấy quân Trần mới đổ ra từ hai bên bờ sông đánh thẳng vào thuyền của giặc. Mũi tên từ thuyền quân Đại Việt bắn ra như mưa, quân giặc không biết chạy trốn vào đâu, tan tác từng mảng như đàn ong vỡ tổ. Trời lại càng nắng gay gắt. Khí trời mỗi lúc một oi bức, khó thở. Quân Nguyên thở hồng hộc, hàng ngũ rối loạn. Chỉ còn một số cụm chống chọi yếu ớt với quân Đại Việt. Tinh thần binh lính địch lúc đó cũng bắt đầu tan rã. Xuống dưới thuyền, cảnh tượng trông thật khủng khiếp. Quân bị ốm nằm vật vã mệt mỏi. Xác chết la liệt. Nhiều tên vứt cả khí giới, nhảy xuống nước, tiếng rên khừ khừ, tiếng la thảm hại, lũ còn lại sợ hãi dúm dó cả người lại.
Những lưỡi mã tấu của quân ta cứ vung lên rồi chém xụống. Nước sông Bạch Đằng đỏ ngầu máu giặc, tung bọt trắng… Tiếng reo hò ngày vang dội. Tiếng chiêng trống ngày càng rộn ràng. Trên thuyền quân ta chất nhiều vũ khí do quân Nguyên bỏ ra đầu hàng. Nhiều thuyền chiến đã cắm cờ hiệu nhà Trần. Mặt sông đầy xác thuyền vỡ, những áo giáp, cung tên, gươm giáo và cả quân giặc đang lóp ngóp bơi vào bờ. Nhưng đến bờ chúng cũng không chạy thoát. Từ làng xóm gần đấy, nhân dân đã đổ ra giúp sức, họ là những người dân quanh vùng, già có, trẻ có, lại cả trẻ em, phụ nữ,… Người mang cuốc, người mang rìu… nghĩa là có gì trong tay thì thứ đó trở thành vũ khí. Ai cũng hăng hái tràn ra đánh giặc, lấy gậy gộc mà đọ giáo mác. Chỉ với vũ khí tự tạo, họ vẫn chiến thắng. Từng tên giặc bị trói gô lại, giải đến cho triều đình.
Phàn Tiếp – tên tướng giặc hùng hổ, độc ác của quân Nguyên giờ đây đang lóp ngóp ở dưới sông, lính ta dùng câu liêm móc lên, bắt sống. Trông thật thẳm hại ! Giờ đây hắn chỉ là một tên tù binh hèn mạt, run rẩy cầu xin tha mạng, riêng reo chiến thắng của quân Đại Việt càng rộn rã khi những chiến binh của ta ào ào nhảy lên thuyền của chủ tướng Ô Mã Nhi. Hắn bị bắt sống cùng rất nhiều lương thực và vũ khí.
Quân ta hò reo ca khúc khải hoàn. Nắng càng vàng hơn. Tiếng trống, tiếng chiêng đã hết nhưng lòng binh sĩ vẫn chưa thôi rộn ràng. Nước sông lại trong xanh trở lại. Những kí ức về một trận chiến oai hùng sẽ mãi không phai trong tâm hồn những người dân Đại Việt bây giờ và mãi mãi về sau.
Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh, mẫu số 6
Kể lại trận đánh ác liệt Điện Biên Phủ trên đồi A1 năm 1954
Đất nước Việt Nam ta, trải qua bao thăng trầm lịch sử, với bao chiến công lẫy lừng. Ngày hôm nay, sau hơn 50 năm đã qua, tôi lại được nghe kể về chiến thắng Điện Biên Phủ, đặc biệt là trận chiến trên đồi A1 năm xưa.
Trong các trận đánh ở chiến dịch Điện Biên Phủ thì trận đánh ở đồi A1 là một trong những trận đánh ác liệt nhất. Trung đoàn 102, Đại đoàn 308 được lệnh tấn công đồi A1.
17 giờ 30 ngày 31 tháng 3, các phân đội chiếm lĩnh trận địa. 18 giờ 15, pháo binh ta kiềm chế pháo địch và bắn phá đồi A1, các mũi xung kích mở cửa. Sau 15 phút, cả hai mũi xung kích đã hoàn toàn làm chủ tầng phòng ngự phía dưới, diệt một số địch, bắt sống 15 tên. Địch co lên tầng trên, các chiến sĩ tiếp tục xung phong về phía ụ đất khó hiểu trên đỉnh đồi. Địch bỗng biến mất và hàng rào lửa đại bác lại xuất hiện trước mặt họ. Các chiến sĩ dũng cảm vượt qua lưới lửa nhằm phát hiện cửa hầm ngầm. Họ chỉ tìm thấy một ngách phụ có quân địch, lập tức sử dụng bộc phá diệt được 20 tên, bắt sống 4 tên, thu được một số súng đạn. Tình hình diễn ra giống lúc trước, bộ đội ta tổ chức bốn đợt xung phong đều không vượt khỏi tuyến hào ngang trước hầm ngầm.
Sáng hôm sau, địch được tiếp viện, tổ chức phản kích. Hầu hết các ụ súng, các đường chiến hào đều bị đạn bom nghiền nát. Riêng ụ đất đỏ vẫn sừng sững trên đỉnh đồi.
Cứ thế, cuộc chiến đấu trên đồi A1 diễn ra giằng co từ ngày 31 tháng 3 đến ngày 2 tháng 4, Trung đoàn 174 lên thay thế Trung đoàn 102. Ta tổ chức chiến đấu hạn chế quân địch, bảo vệ cho một đội đặc nhiệm gồm 25 cán bộ, chiến sĩ do đồng chí Nguyễn Phú Xuyên Khung – cán bộ công binh của bộ trực tiếp chỉ huy đào đường hầm ở A1 ngay trước mũi súng quân địch, trong tầm kiểm soát của lựa đạn. Đất đồi A1 cực kì rắn. Tiểu đội trưởng công binh Lưu Viết Thoảng lựa chọn một tổ khoẻ nhất mở cửa hầm. Cả đêm đầu chỉ khoét được vào vách núi mỗi chiều 90 xăng-ti-mét. Địch không ngừng bắn súng và ném lựu đạn. Nhiều đồng chí bị thương và hi sinh trong khi làm nhiệm vụ. Có lẽ đây chính là sự việc để nhà thơ Tố Hữu viết :
Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
Chiến sĩ anh hùng
Đầu nung lửa thép
Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hẩm, mưa dầm, cơm vắt.
Máu trộn bùn non
Gan không núng
Chí không mòn!
Ngày 5 tháng 5 đường hầm ở A1 đã hoàn thành. Trong đêm, một tấn bộc phá chia thành những gói hai mươi kilô, được đưa vào đặt dưới hầm ngầm của địch.
Bộ chỉ huy mặt trận quyết định đẩy nhanh nhịp độ phát triển của đợt tấn công thứ ba, chuẩn bị mọi điều kiện sớm chuyển sang tổng công kích.
Sáng ngày 6 tháng 5, Tiểu đoàn 255 của 174 phòng ngự suốt ba mươi tư ngày đêm trên đồi A1 được lệnh rút qua đồi Cháy làm lực lượng dự bị. Tiếng nổ của khối bộc phá trên A1 được chọn làm hiệu lệnh xung phong cho đợt tiến công tối nay. 20 giờ, hoả lực của ta tập trung bắn vào A1, C2, cứ điểm 506, bắc Mường Thanh, cứ điểm 310, tây Mường Thanh. Lần này có thêm sự phối hợp của 12 dàn hoả tiễn sáu nòng. Đợt pháo hoả kéo dài 45 phút. Địch phản ứng yếu ớt, nhưng chúng đã có chuẩn bị. Khi pháo ta ngừng bắn, tất cả những khẩu pháo còn lại của tập đoàn cứ điểm tập trung trút đạn xuống những trận đại chiến hào của ta xung quanh A1 và C2.
Đúng 20 giờ 30, một tiếng nổ trầm, trên đồi A1 có một đám khói lớn đang phụt lên. Bộ đội ta từ các phía đồng loạt tiến công, các trung đoàn cũng lần lượt tấn công các cứ điểm trên đồi C1, D1,… cắt đứt con đường tiếp viện của địch từ Mường Thanh lên. Trận A1 chiến thắng, bắt sống tướng Đờ-cát và hàng loạt lính Pháp đầu hàng vô điều kiện .
Trận chiến đấu ác liệt trên đồi A1 đã kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ trong chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Dù có nhiều chiến sĩ đã hi sinh anh dũng như Phan Đình Giót, Tô Vĩnh Diện, Bế Văn Đàn,… nhưng tên tuổi các anh đã và đang còn sống mãi với chiến thắng hào hùng của dân tộc. Chiến thắng đó là niềm tự hào của chúng ta:
Chín năm là một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ, nên trang sử vàng.
Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh, mẫu số 7
Kể lại trận chiến đại thắng thành Thăng Long năm 1789
Cuối năm Mậu Thân (1788), nhân dân Thăng Long và Bắc Hà phải chịu đựng những ngày tháng đau thương, tủi nhục vì nạn ngoại xâm. Lợi dụng sự cầu cứu của Lê Chiêu Thống, 290 nghìn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị thống lãnh, đã tràn vào chiếm đóng kinh thành và kiểm soát phần lớn đất Bắc Hà. Quân đồn trú Tây Sơn do tướng Ngô Văn Sở chỉ huy, đã theo kế sách mưu trí của tiến sĩ Ngô Thì Nhậm, lui về giữ phòng tuyến Tam Điệp – Biện Sơn.
Giành được thắng lợi tương đối dễ dàng, Tôn Sĩ Nghị tỏ ra rất chủ quan. Hắn ra lệnh cho quân sĩ tạm đóng quân ở Thăng Long để nghỉ ngơi ăn tết và chuẩn bị mọi mặt thật chu đáo rồi sau tết sẽ “tiến vào tận sào huyệt của giặc, bắt sống Nguyễn Huệ” (Hoàng Lê nhất thống chí), Hắn đóng đại bản doanh ở cung Tây Long bên bờ sông Nhị và bố trí lực lượng phòng thủ quanh Thăng Long, nhất là hướng đường thiên lý và đường thượng đạo mà quân Tây Sơn có thể bất ngờ tiến công. Trên hai hướng phòng ngự này, đồn Ngọc Hồi và đồn Đống Đa giữ vị trí then chốt.
Những ngày giáp tết năm đó, nhân dân kinh thành đã chứng kiến biết bao tội ác của quân giặc: ”Kiếm mọi cách vu hãm những người lương thiện, áp bức, cướp bóc những nhà giàu có, thậm chí giữa chợ, giữa đường cũng cướp giật của cải, hãm hiếp đàn bà, không còn kiêng sợ gì cả”; và sự phản bội hèn mạt của bọn bán nước: ”nước Nam ta từ khi có đế, có vương đến nay, chưa bao giờ có ông vua luồn cúi đê hèn như thế” (Hoàng Lê nhất thống chí).
Nhưng cũng trong thời gian đó, tại Phú Xuân, ngày 24 tháng 11 Mậu Thân (21/12/1788) Quang Trung nhận được tin cấp báo và ngay hôm sau làm lễ xuất quân. Với những phán đoán tình hình và công việc chuẩn bị được trù liệu trước, chỉ trong vòng 35 ngày từ 25/11 đến 30/12 Mậu Thân (22/12/1788 – 25/1/1789), trên đường hành quân và tập kết đại quân ở Tam Điệp, Quang Trung đã hoàn tất mọi việc chuẩn bị cho chiến dịch đại phá quân Thanh. Đúng đêm giao thừa Tết Kỷ Dậu, quân Tây Sơn bất ngờ tiến công tiêu diệt đồn tiền tiêu của giặc ở Gián Khẩu, cách Thăng Long gần 90 km, mở đầu cuộc đại phá quân Thanh. Sau 5 ngày đêm tiến quân thần tốc, đạo quân chủ lực của Quang Trung đã phá tan hệ thống phòng ngự của địch trên hướng đường thiên lý tiến về Thăng Long.
Mờ sáng mùng 5 tết (30/1/1789), đạo quân chủ lực của Quang Trung phối hợp với đạo quân đô đốc Bảo công phá và tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Ngọc Hồi – Đầm Mực. Cùng lúc đó, đạo quân do đô đốc Long chỉ huy, bất ngờ diệt đồn Đống Đa rồi đánh thọc sâu vào đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị ở cung Tây Long.
Sự phối hợp hai trận đánh Ngọc Hồi, Đống Đa làm cho Tôn Sĩ Nghị hết sức bất ngờ, choáng váng và lâm vào thế hoàn toàn bất lực, sụp đổ. Với cả một lực lượng dự bị khá lớn ở tổng hành dinh, nhưng viên chủ soái quân Thanh đành phải tháo chạy trong cảnh hoảng loạn và tan rã. Trên đường tháo chạy, chúng lại bị một cánh quân Tây Sơn khác chặn đánh ở vùng Yên Thế, Phượng Nhãn, Lạng Giang và bị bồi thêm những đòn tổn thất nặng nề.
35 ngày chuẩn bị trên đường hành quân dài khoảng hơn 500 km từ Phú Xuân đến Tam Điệp và 5 ngày đêm tiến công tiêu diệt trên một tuyến phòng ngự dài khoảng 90 km từ Gián Khẩu đến Thăng Long, quân Tây Sơn dưới sự lãnh đạo của Quang Trung đã đạt mức kỷ lục về tính thần tốc trong hành quân chuẩn bị và tiến công tiêu diệt địch. Đại thắng Thăng Long xuân Kỷ Dậu 1789 là một trong những vũ công hiển hách nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta.
Đó là chiến thắng tiêu biểu cho đỉnh cao của sự phát triển và thắng lợi của phong trào Tây Sơn, được tạo nên bằng sức mạnh quật khởi của nông dân kết hợp với sức mạnh yêu nước và đoàn kết của cả dân tộc. Trong hàng ngũ quân đội Tây Sơn lập nên vũ công mùa xuân đó có những người đã tham gia dấy nghĩa từ đất Tây Sơn, có những con các em dân tộc Tây Nguyên chuộng tự do phóng khoáng, có những người dân khắp mọi miền của đất nước đã tự nguyện đứng dưới lá cờ nghĩa Tây Sơn, có những trí thức yêu nước như Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Thiếp… những võ quan cũ của chính quyền Lê – Trịnh như Đặng Tiến Đông…, những tướng soái Tây Sơn đã đày dạn chiến trận như Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Nguyễn Văn Tuyết… .
Đó là chiến thắng của quân đội Tây Sơn với quyết tâm và ý chí đánh cho nó ”chích luân bất phản”, đánh cho nó ”phiến giáp bất hoàn”, đánh cho ”sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”. ý chí đó lại được nhân dân hết lòng giúp đỡ. Và như chúng ta đã biết, trên đường hành quân chiến đấu của quân Tây Sơn, nhân dân đã cho con em mình gia nhập nghĩa quân, đã tiếp tế lương thực, giúp các phương tiện vượt sông…
Nhân dân các làng xã quanh Thăng Long đã giúp quân Tây Sơn bí mật giấu quân ém sát đồn giặc, góp ván gỗ làm mộc công phá đền Ngọc Hồi, đã phối hợp làm trận rồng lửa trong trận diệt đồn Đống Đa…
Bằng lối đánh thần tốc và một thế trận lợi hại kết hợp tiến công chính diện mãnh liệt với những mũi thọc sâu bất ngờ và những mũi vu hồi sau lưng, Quang Trung với số quân chỉ hơn 10 vạn, nhưng đã đặt Tôn Sĩ Nghị và 29 vạn quân Thanh vào thế hoàn toàn bị động, bất ngờ đi từ thất bại này đến thất bại khác và cuối cùng phải chấp nhận sự thảm hại, tháo chạy trong hoảng loạn. Đại thắng Xuân Kỷ Dậu (1789) biểu thị tập trung thiên tài quân sự của Quang Trung Nguyễn Huệ.
Cũng ngay sau khi cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi, Quang Trung đã giao cho Ngô Thì Nhậm, Phan Huy ích dùng mọi biện pháp ngoại giao mềm mỏng và tích cực để nhanh chóng lập lại quan hệ hòa hiếu với nhà Thanh. Chỉ trong vòng nửa năm, hai bên đã thông sứ bộ và sau đó, quan hệ bang giao và buôn bán giữa hai nước đã được khôi phục.
Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh, mẫu số 8
Mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789), quân của Nguyễn Huệ nước An Nam vượt sông Gián Thủy đánh bại quân phòng thủ của Lê Duy Kỳ (Lê Chiêu Thống), lại bắt toán quân Thanh tuần thám giết sạch. Ngày mồng hai, Tôn Sĩ Nghị được tin hoảng hốt ngự địch, ra lệnh Tổng binh Trương Triều Long mang ba ngàn quân tăng cường cho các đồn Hà Hồi, Ngọc Hồi để chống cự, lại ra lệnh cho Ðề đốc Hứa Thế Hanh mang một ngàn năm trăm tên, tự đốc suất một ngàn hai trăm tên để tiếp ứng. Quân Nguyễn Huệ tiến tới đông như ong, vây đồn bốn phía, đánh nhau một ngày một đêm, quân Thanh bị đánh tan bèn bỏ chạy.
Vào canh năm ngày mồng 5 Nguyễn Văn Huệ mang đại binh tiến đánh, thân tự đốc chiến, dùng một trăm thớt voi khỏe làm tiên phong. Rạng sáng quân Thanh cho kỵ binh nghênh đón địch, ngựa bị voi quần kinh hãi bỏ chạy, quân rút lui vào trại cố thủ. Phía ngoài trại, lũy đầy chông sắt, bên trong bắn súng ra cự địch. Vào giờ Ngọ quân Nguyễn bắn hỏa châu, hỏa tiễn tới tấp; lại dùng rạ bó to lăn mà tiến đều, khinh binh theo sau, trước ngã sau tiến lên một lòng quyết chiến, tại các trại quân Thanh đồng thời tan vỡ, quân Nguyễn thừa thắng chém giết, quân Thanh tử thương quá nửa.
Ðề đốc Hứa Thế Hanh thấy thế lực nhiều ít rõ ràng, bảo gia nhân đem ấn triện Ðề đốc mang đi, rồi ra sức đánh, bị chết tại trận. Lúc này quân địch càng bị giết càng nhiều, chia cắt quân Thanh từng nhóm rồi vây kín. Thống soái Tôn Sĩ Nghị mất liên lạc với Hứa Thế Hanh và các đại viên Ðề, Trấn; bèn ra lệnh Phó tướng Khánh Thành, Ðức Khắc Tinh Ngạch mang ba trăm quân đoạt vây chạy về phía bắc. Khi tàn quân của Tôn Sĩ Nghị chạy đến bờ sông, thì số quân Thanh ba ngàn tên trú đóng tại bờ phía nam đã được Tổng binh Thượng Duy Thanh mang đi tiếp ứng cho Hứa Thế Hanh, bèn ra lệnh cho Tổng binh Lý Hóa Long vượt qua cầu nổi chiếm cứ bờ phía bắc, để tiện việc yểm hộ qua sông. Không ngờ Lý Hóa Long đi đến giữa cầu, trượt chân rơi xuống nước chết, số quân mang đi kinh hãi không biết làm gì. Tôn Sĩ Nghị ra lệnh Khánh Thành yểm hộ mặt sau bằng cách bắn súng điểu thương vào quân Nguyễn Văn Huệ đang truy kích, riêng mình tự mang quân theo cầu nổi lui về bờ phía bắc; rồi lập tức cho chặt đứt cầu nổi, cùng với bọn Khánh Thành rút lui về sông Thị Cầu.
Quân Thanh tại phía nam sông thấy cầu đã bị đứt chìm, không có đường về, bèn đánh trở lại thành nhà Lê. Các Tổng binh Thượng Duy Thăng, Trương Triều Long, Phó tướng Na Ðôn Hành, Tham tướng Dương Hưng Long, Vương Tuyên, Anh Lâm đều tử trận. Tri châu Ðiền Châu Sầm Nghi Ðống không được viện binh đành tự tử, số thân binh tự tử cũng đến hàng trăm. Quốc vương An Nam Lê Duy Kỳ vào lúc binh thua tới dinh Tôn Sĩ Nghị họp bàn, thấy Tôn Sĩ Nghị đã bỏ chạy, bèn hoảng hốt vượt sông chạy lên phương bắc, đến đây nhà Lê diệt vong.
Nguyễn Văn Huệ xua quân tiến vào thành, chiến bào mặc trên người nhuốm đen, do bởi thuốc súng. Ðề đốc Ô Ðại Kinh mang đạo quân Thanh tại Vân Nam xuất phát từ Mã Bạch quan vào ngày 20 tháng 11 năm ngoái, đến Tuyên Quang vào ngày 21 tháng 12; khi đến sông Phú Lương thấy cầu nổi bằng tre đã bị chìm đứt, nhìn sang bên kia bờ thấy lửa rực bốn phía, bèn triệt hồi Tuyên Quang, rồi lập tức lui vào trong nước.
Cuộc chiến vẫn còn tiếp tục, nhưng rõ ràng rằng phần thắng sẽ thuộc về những lý tưởng chiến đấu vì chính nghĩa. Tinh thần hy sinh và tài năng của dân tộc ta một lần nữa được khẳng định với bạn bè năm châu khi một lần nữa nhắc lại chiến công oai hùng.
Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh, mẫu số 9
Đêm đã rất khuya…
Ngoài trời, những vệt sáng mờ mờ đầu tiên của một ngày mới đã xuất hiện. Trong những xóm làng gần đó đã cất lên thưa thớt vài ba tiếng gà gáy vang vọng.
Sự yên lặng bao phủ toàn doanh trại. Các binh sĩ đều đã đi ngủ cả, chỉ nghe tiếng thở đều nhè nhẹ, tiếng cuốc kêu não nuột vang trong đêm vắng. Nhưng trong bóng tối và cái tĩnh mịch ấy, ở một góc trại, vẫn còn một ánh đèn sáng.
Bên chiếc đèn dầu gần cạn chỉ còn le lói, vị chủ tướng đang ngồi trầm ngâm, mắt đăm đăm nhìn về phía trước. Trên bàn, cuốn binh thư đọc dở nằm im như chờ đợi. Ánh sáng yếu ớt hắt lên khuôn mặt suy tư, đôi mày nhíu lại, chòm râu đen và đôi mắt sáng rực như hai vì sao. Đó chính là Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo. Làm cách nào? Làm cách nào? Trong đầu vị chủ tướng vẫn trăn trở câu hỏi. Chỉ còn một ngày nữa thôi, vào rạng sáng, đoàn thuyền chiến của Ô Mã Nhi sẽ xuôi dòng Bạch Đằng để rút về nước. Đây là thời cơ thuận lợi để quân ta phản công, để giải phóng đất nước. Thời gian đã gấp rút lắm rồi. Vậy mà ông chưa nghĩ ra cách đánh nào thích hợp, đảm bảo chiến thắng cho quân ta. Đánh địch đã khó nhưng chiến thắng chúng còn khó khăn hơn rất nhiều lần !
Trần Hưng Đạo chợt nhớ bài học lịch sử xa xưa – năm 938, Ngô Quyền đã đánh thắng quân Nam Hán… Đúng rồi, chỉ có cách đánh của Ngô Quyền mới thật là thượng sách. Trong ông luồng nhiệt huyết lại bốc cháy bừng bừng, ông thầm cảm ơn vị dũng tướng họ Ngô đã cho ông một ý tưởng. Vừa lúc đó, gà gáy báo trời đã sáng hẳn.
Trần Hưng Đạo ban lệnh toàn quân vào rừng đẵn gỗ làm cọc. Dân chúng cũng hồ hởi đì theo giúp. Họ đẵn những cây gỗ chắc khoẻ như lim hay táu. Cây đổ ầm ầm. Khắp nơi chỉ nghe tiếng rìu, tiếng cưa ồn ào, náo động. Người ta dùng dao, dùng rìu chuốt nhọn đầu những thanh gỗ thành những cọc nhọn cao quá đầu người, có cái cao đến hai trượng sáu, to đến nỗi một vòng ôm mới đủ. Đầu nhọn được lấy sắt bọc lại, lúc này mỗi chiếc cọc trở thành một thứ vũ khí vô cùng lợi hại cho những gì sẽ va vào nó.
Nhìn cảnh làm việc như vậy, Trần Hưng Đạo rất hài lòng. Ông sung sướng ngắm nhìn những chiếc cọc nhọn mà tin tưởng vào chiến thắng sắp tới. Sau khi cọc đã đủ, Trần Hưng Đạo cho đóng cọc xuống khúc sông gần ngã ba sông Chanh. Đây quả là một địa thế thuận lợi do thuỷ triều lên xuống nhanh và mạnh.
Tại đây, những người lặn giỏi như Yết Kiêu lại có dịp trổ tài. Ở trên, những thanh niên khoẻ mạnh ngồi trên thuyền, đưa những chiếc cọc nặng xuống dưới, cắm sâu vào lòng sông. Còn dưới mặt nước, những người thợ lặn đã chờ sẵn. Họ đỡ những chiếc cọc, thận trọng chỉnh lại hướng và độ vững chắc trước khi ngoi lên. Người đâm, kẻ đỡ thật ồn ào náo nhiệt.
Trên bờ, Trần Hưng Đạo ngắm nhìn trận địa cọc đang dần hình thành. Lúc này thuỷ triều đang rút, ta có thể nhìn thấy những cọc nhọn hoắt nhô lên trông thật nguy hiểm. Cọc này sát với cọc kia như bàn chông, đứng vững như bàn thạch, không hề suy chuyển khi bị những cơn sóng to ập vào. Ông mỉm cười sung sướng rồi đích thân chuẩn bị ở hai bên bờ. Những toán quân khoẻ mạnh, nhanh nhẹn được chọn ra. Những bùi nhùi, đá lửa, rơm rạ, dầu cùng những thứ dễ cháy đã được bà con giấu sẵn vào luồng lạch hoặc hai bên bờ những nơi lau lách um tùm rậm rạp gần đó để phóng hoả khi cần thiết.
Người làm việc nọ, kẻ giúp việc kia, thật khẩn trương nhưng vẫn chu đáo, cẩn trọng. Họ thi nhau đóng những chiếc thuyền nhỏ, nhẹ, bằng gỗ chuẩn bị cho cuộc tiến công.
Giữa lúc ấy, trên bờ những quân sĩ còn lại cũng không chịu ngồi yên. Họ rèn đúc khí giới, mài dao thêm sắc, mài gươm thêm nhọn, chuẩn bị cung tên. Nhóm thì đấu vật, nhóm thì đấu gươm. Tinh thần hăng hái không kể đầu cho xiết.
Thấm thoát đến chiều tối thì mọi việc cũng đã xong. Những quân sĩ vẫn chưa ngủ. Họ ngồi lại nghe một người đọc lại bài hịch của Hưng Đạo Vương: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng…”. Lời hịch vang lên khiến lòng người rạo rực, bừng bừng trong máu, trong tim. Doanh trại lại ồn ào tiếng múa gươm, múa kiếm sôi động nhộn nhịp. Tưởng như đang diễn ra một cuộc chiến đấu.
Trống đã điểm canh hai, tờ mờ sáng, bỗng gần cửa sông Bạch Đằng xuất hiện một đoàn thuyền chiến dài dằng dặc làm chật cả khúc sông. Những cánh buồm làm thẫm màu nước. Chiêng trống vọng ra ầm ầm như sấm, như sét… Quanh hai bên bờ không một bóng người. Lúc này thuỷ triều đang dâng lên cao, chỉ thấy mênh mông màu nước trắng xoá, những bụi lau lách ven bờ. Thỉnh thoảng vọng lại vài tiếng chim thưa thớt.
Trọng thuyền, Ô Mã Nhi đang nằm ung dung trên đệm gấm, mừng rỡ nói với các tướng: “Quân Trần thấy ta là sợ mất mật, còn sức đâu mà đánh!”. Y lại càng yên tâm hơn vì sắp ra đến biển rồi, quân ở đâu ra cũng khó cản đường một đoàn thuyền đông đúc! Thuyền chậm lại dần.
Bỗng dậy lên tiếng trống, tiếng chiêng đầy náo nức, vọng hết cả mặt sông. Từng đàn chim bay loạn xạ từ những bụi cây. Ô Mã Nhi giật mình chạy ra ngoài nhìn. Tiếng trống vẫn cứ rộn rã. Quân Nguyên đang ngơ ngác, bỗng thấy trước mặt xuất hiện một đoàn, thuyền nhẹ. Trên con thuyền dẫn đầu là tướng quân Nguyễn Khoái, tay cầm một thanh đao, thét lớn: “Ồ Mã Nhi, ta chờ mày ở đây lâu rồi, mày chạy đâu cho thoát”. Nguyễn Khoái đứng hiên ngang, thân thể cao lớn, vững như tượng đồng, cùng quân sĩ tấp vào thuyền giặc. Tiếng trống vang vang. Những mũi tên bay từ đâu tới tấp vào quân giặc. Ô Mã Nhi giơ khiên lên đỡ, cùng người tướng là Phàn Tiếp xông ra: Nhưng vừa đánh nhau một lúc, bỗng Nguyễn Khoái thét lớn với quân sĩ: “Anh em, sức giặc còn mạnh, người còn đông, chưa thể hạ được, chúng ta rút lui!”. Quân sĩ dạ ran. Rồi đoàn thuyền nhỏ chèo nhanh trở lại.
Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh mẫu 3
Trong thế kỷ XIII, dân tộc Việt Nam đã lập nên những chiến công vĩ đại: ba lần chiến thắng giặc Nguyên Mông xâm lược.
Lần thứ nhất xảy ra vào tháng Giêng năm 1258. Bấy giờ, vua chúa Mông Cổ đang tiến hành cuộc chiến tranh xâm chiếm Trung Quốc. Bên cạnh những đạo quân ồ ạt đánh vào đất Tống, một đạo quân khoảng bốn vạn người, gồm kỵ binh Mông Cổ và binh lính người Thoán Vân Nam, do tướng Ngột Lương Hợp Thai (Uryangquadai) chỉ huy, từ Vân Nam đánh xuống Đại Việt. Vua Trần là Thái Tông đã đem quân lên chặn giặc ở Bình Lệ Nguyên, bên sông Cà Lồ. Nhưng sau đó, quân ta rút lui để bảo toàn lực lượng trước thế mạnh ban đầu của giặc.
Quân ta rút lui, bỏ Thăng Long lại phía sau, nhưng Triều đình nhà Trần và quân dân vẫn không nao núng. Vua tôi nhà Trần đã bàn phương lược đánh giặc trên những con thuyền xuôi sông Hồng. Khi được Thái Tông hỏi ý kiến, Thái sư Trần Thủ Độ đã trả lời: ”Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo”.
Giặc đóng ở Thăng Long, trong một tòa thành trống, đã khốn đốn vì thiếu lương thực. Chúng cố đánh ra xung quanh để cướp lương thực, nhưng ở đâu cũng gặp sức chống trả mãnh liệt của nhân dân. Vì vậy mà chỉ sau 9 ngày, chúng đã vô cùng hốt hoảng. Đó chính là thời cơ để quân ta phản công. Ngày 29-1-1258, Vua Trần Thái Tông đã đem binh thuyền ngược sông Hồng tiến về Thăng Long. Quân địch bị đánh bật khỏi Kinh thành, theo đường cũ, chạy về Vân Nam. Trên đường tháo chạy, chúng còn bị quân dân các dân tộc thiểu số ở miền núi tập kích, đánh cho tan tác.
Sau lần thất bại đó, bọn vua chúa Mông Cổ vướng vào cuộc nội chiến (1259 -1264) và cuộc chiến tranh với Tống (1267-1279) nên chưa thể tiếp tục ngay cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Mãi đến năm 1279, nhà Tống mất, toàn bộ đất Trung Quốc đã nằm dưới ách thống trị của nhà Nguyên, vua Nguyên là Hốt Tất Liệt (Quibilai) mới chuẩn bị xâm lược nước ta bằng quân sự. Sau khi không thể khuất phục được Đại Việt bằng những sứ bộ ngoại giao, cuối năm 1284, đạo quân Nguyên Mông do Thoát Hoan (Toan), con trai Hốt Tất Liệt, và A Lý Hải Nha (Ariquaya) chỉ huy, đã lên đường, bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt lần thứ hai.
Lần này, ngoài cánh quân lớn của Thoát Hoan đánh vào mặt Lạng Sơn, Vua Nguyên còn sai Nạp Tốc Lạt Đinh (Nasirud Din) đem một cánh quân từ Vân Nam đánh vào mặt Tuyên Quang, và ra lệnh cho Toa Đô (Sogatu) đem đạo quân còn đóng ở Bắc Chămpa, đánh vào mặt Nam của Đại Việt.
Sau một vài trận đánh chặn giặc ở mặt Lạng Sơn và Tuyên Quang, trong tháng 2/1285, quân ta lại rút lui và lần nữa bỏ trốn Thăng Long, kéo về mạn Thiên Trường và Trường Yên (Ninh Bình). Và để tránh cái thế bị kẹp vào giữa các gọng kìm của giặc, đại quân và Triều đình chờ cho cánh quân của ba Đô tiến đến Trường Yên (Ninh Bình) thì rút vào Thanh Hóa. Trong khi một bộ phận lớn quân chủ lực rút, thì khắp nơi, quân địa phương và dân binh các lộ, phối hợp với các cánh quân nhỏ của Triều đình để lại đã không ngừng tập kích, tấn công vào quân địch ở vùng bị chiếm đóng. Kế hoạch ”vườn không nhà trống” được toàn dân thực hiện. Giặc đóng quân phân tán, thiếu lương thực, có nguy cơ bị tiêu diệt. Mùa hè đến, lại giáng lên đầu chúng những tai họa mới. Sử Nguyên chép: “Bệnh dịch hoành hành… Nước lụt dâng to, ngập ướt doanh trại… “. Thời cơ phản công của quân ta đã tới. Tháng 5/1285, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn dẫn đại quân tiến ra Bắc. Kế hoạch diệt địch như sau: Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải và một số tướng lĩnh được giao nhiệm vụ diệt địch trên phòng tuyến sông Hồng, còn Hưng Đạo Vương, đem quân vòng qua vùng Hải Đông, tiến lên Vạn Kiếp, chặn đường tháo chạy của địch. Cục diện chiến tranh xảy ra đúng như dự liệu: cuối tháng 5-1285, Trần Quang Khải cùng với Trần Nhật Duật, Trần Quốc Toản đã đánh tan giặc ở Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, rồi tiến lên giải phóng Thăng Long. Thoát Hoan hoảng hốt, rút khỏi Thǎng Long, chạy về phía Vạn Kiếp. Đến đây, bọn giặc lọt vào trận địa mai phục của Trần Hưng Đạo, chúng bị thương vong rất nhiều. Đám tàn quân hoảng loạn cố mở đường máu tháo chạy. Nhưng đến biên giới Lạng Sơn, chúng lại bị quân ta chặn đánh. Thoát Hoan phải chui vào ống đồng rồi bắt quân lính khiêng chạy về nước. Viên đại tướng Lý Hằng đi đoạn hậu, bị tên độc trúng đầu gối, về đến Tư Minh thì chết.
Trong khi cánh quân Thoát Hoan chạy về phía Lạng Sơn thì cánh quân Nạp Tốc Lạt Đinh tìm đường tẩu thoát về Vân Nam, cũng bị quân dân ta tập kích, đánh cho tơi bời. Không biết Thoát Hoan đã bỏ chạy, Toa Đô kéo ra Bắc, theo sông Hồng định về Thăng Long, nhưng đến Tây Kết thì bị quân ta chặn đánh. Toa Đô bị chém. Thế là cuộc chiến tranh xâm lược của Nguyên Mông lần thứ hai hoàn toàn thất bại.
Ngay sau thất bại năm 1258, Hốt Tất Liệt đã ra lệnh chuẩn bị một cuộc chiến tranh xâm lược mới. Nhưng phải đến cuối năm 1287, các đạo quân viễn chinh mới có thể lên đường. Một đạo do Thoát Hoan và áo Lỗ Xích (Agurucxi) chỉ huy tiến vào Lạng Sơn. Một đạo khác, do ái Lỗ (Airuq) cầm đầu, từ Vân Nam đánh vào Tuyên Quang. Lần này, không còn cánh quân phía Nam, nhưng Vua Nguyên lại phái thêm một cánh thủy quân, sai ô Mã Nhi (Omar) chỉ huy, hộ tống đoàn thuyền tải lương của Trương Văn Hổ vào Đại Việt theo đường biển.
Tháng 12/1287, khi đoàn thuyền chiến của ô Mã Nhi tiến vào vùng biển An Bang (Quảng Ninh), Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư đem thủy quân chặn đánh, nhưng không cản được giặc. Ô Mã Nhi cho binh thuyền tiến thẳng vào cửa sông Bạch Đằng, không chú ý đến đoàn thuyền lương nặng nề chậm chạp ở sau. Mãi đến tháng 1/1288, đoàn thuyền lương của giặc mới tiến đến vùng đảo Vân Đồn. Trần Khánh Dư lại đem quân tập kích. Trương Văn Hổ chống đỡ không nổi, đổ cả lương thực xuống biển, trèo lên một chiếc thuyền nhỏ, trốn về Quỳnh Châu (Hải Nam). Bấy giờ, Thoát Hoan cũng đã tiến vào Lạng Sơn, hội quân với cánh quân thủy của ô Mã Nhi ở Vạn Kiếp. Thoát Hoan dừng lại ở đây gần một tháng, xây dựng Vạn Kiếp thành một căn cứ vững chắc, mãi đến cuối tháng 1/1288 mới chia quân tiến về Thăng Long.
Lần thứ ba, quân dân nhà Trần lại bỏ ngỏ Thăng Long. Quân Nguyên vào Thăng Long ngày 2/2/1288. Ngay sau đó, Thoát Hoan vội sai ô Mã Nhi đem chiến thuyền ra biển đón thuyền lương của Trương Văn Hổ. Nhưng thuyền còn đâu nữa. Không có lương thực, đạo quân Thoát Hoan đóng ở Thăng Long lâm vào tình thế khốn quẫn. Thoát Hoan phải ra lệnh rút quân về Vạn Kiếp. Trên đường rút về Vạn Kiếp, giặc bị quân ta chặn đánh ở cửa Ba Sông, vùng Phả Lại. Kéo về đóng ở Vạn Kiếp, đạo quân xâm lược vẫn bị quân ta tập kích ngày đêm. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, bọn tướng Nguyên đã nói với Thoát Hoan: ”ở Giao Chỉ, không có thành trì để giữ, không có lương thực đủ ăn, mà thuyền lương của bọn Trương Văn Hổ lại không đến. Vả lại khí trời đã nóng nực, lương hết, quân mệt, không lấy gì để chống đỡ lâu được, làm hổ thẹn cho triều đình, nên bảo toàn quân mà về thì hơn” Trước tình hình đó, Thoát Hoan quyết định rút quân về nước theo hai đường: cánh quân bộ rút qua vùng Lạng Sơn, còn cánh quân thủy sẽ rút ra biển theo sông Bạch Đằng.
Kế hoạch rút lui của giặc không nằm ngoài dự liệu của Trần Hưng Đạo. ông đã bố trí chặn giặc ở vùng biên giới và chuẩn bị cho một trận quyết chiến lớn trên sông Bạch Đằng. Từ tháng 3, quân sĩ và nhân dân đã đẵn gỗ lim, gỗ táu ở rừng về đẽo nhọn, đóng xuống lòng sông, làm thành những bãi cọc lớn. Thủy quân và bộ binh ta đã phục sẵn trong các nhánh sông và các khu rừng rậm ven sông Bạch Đằng, chờ ngày tiêu diệt địch.
Sáng ngày 9/4/1288, đoàn thuyền chiến của ô Mã Nhi tiến vào sông Bạch Đằng. Khi đoàn thuyền giặc lọt vào trận địa mai phục của ta thì từ các nhánh sông, các thuyền nhẹ của ta lao ra, đánh tạt vào sườn giặc, dồn chúng vào các bãi cọc. Giặc định áp thuyền sát bờ, đổ quân chiếm lấy núi cao để yểm hộ cho đoàn thuyền rút, nhưng bị bộ binh ta đánh hắt xuống. Một trận kịch chiến ác liệt đã xảy ra. Nước triều xuống gấp, thuyền giặc to nặng, lao nhanh theo dòng nước, vướng cọc, tan vỡ rất nhiều. Cho đến giờ dậu (5-7 giờ tối), toàn bộ đạo quân thủy của giặc bị tiêu diệt. ô Mã Nhi bị bắt sống. Lần thứ ba trong lịch sử giữ nước của dân tộc, dòng Bạch Đằng lại ghi thêm một chiến công oanh liệt. Trong khi đó, đạo quân của Thoát Hoan cũng khốn đốn rút chạy ra biên giới. Sau khi bị phục kích ở cửa ải Nội Bàng, chúng bỏ con đường ra ải Khâu Cấp, vòng theo đường Đan Ba (Đình Lập), chạy tạt ra biên giới. Nhưng ở đây, chúng cũng bị quân ta chặn đánh, tướng giặc là A Bát Xích (Abaci) bị trúng tên. Mãi đến ngày 19/4/1288, đám tàn quân của Thoát Hoan mới về đến Tư Minh.
Chiến thắng Bạch Đằng oanh liệt đã chôn vùi vĩnh viễn mộng xâm lược của Hốt Tất Liệt.
Đăng bởi: THPT Ngô Thì Nhậm
Chuyên mục: Giáo Dục