Hầu đồng là gì?
Theo Wiki, định nghĩa hầu đồng là gì được đề cập đến như sau: Hầu đồng, hay còn gọi là hầu bóng, đồng bóng là một nghi thức trong hoạt động tín ngưỡng dân gian và tôn giáo thờ nữ thần mẹ Đạo Mẫu dòng Shaman giáo của nhiều dân tộc, trong đó có tín ngưỡng dân gian Việt Nam.
Theo Ban tôn giáo Chính phủ, hầu đồng là một hoạt động tín ngưỡng có tính thiêng rất cao. Theo quan niệm và thực tế, bản chất của việc hầu đồng là các vị thánh thần nhập vào người hầu đồng để phán truyền, chữa bệnh, ban phúc lộc… Lúc này, các ông/bà đồng là hiện thân của vị thần đã nhập vào họ.
Cũng theo Ban Tôn giáo Chính phủ, hầu đồng là nghi lễ trong tín ngưỡng Thờ Mẫu Tứ phủ (Thiên, Địa, Thoải và phủ Thượng Ngàn hay còn gọi là Nhạc Phủ). Đặc biệt, nghi lễ này thường mang đặc điểm cũng như các sắc thái khác nhau và được thể hiện trong việc thờ các vị thành trong đền.
Có thể thấy, hiện không có định nghĩ cụ thể về hầu đồng mà đây chỉ là khái niệm để chỉ chung trạng thái tâm linh khi thần thánh “nhập” vào người ông/bà đồng và thông qua thân xác của ông/bà đồng nhằm thể hiện lời nói, hành động, ý muốn truyền đạt.
– Cúng hầu đồng là một nghi lễ trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, thờ Đức Thánh Trần, … Về bản chất, hầu đồng là nghi thức giao tiếp với thần linh thông qua các vị đồng nam, nữ. Người ta tin rằng, các vị thần có thể nhập hồn vào thể xác của ông đồng hoặc bà đồng ở trạng thái thăng hoa, cực lạc để trấn yểm trừ tà ma, chữa lành bệnh tật, phù hộ, ban lộc cho các con nhang, đệ tử.
– Khi thần nhập vào, lúc đó các ông đồng, bà đồng không còn là mình nữa mà hóa thân của thần nhập vào họ. Để phục vụ cho nghi lễ quan trọng này, người ta đã sáng tạo ra một hình thức lễ nhạc gọi là Hát văn (hát chầu văn) để phục vụ cho quá trình thần linh nhập thế.
– Người đứng hầu đồng gọi là Thanh Đồng, Thanh Đồng gọi là đàn, ông gọi là “cậu”, nữ gọi là Cô hoặc Ba Đồng. Bà đồng, ông đồng thường có tính khí khác người, rất nhạy cảm, đặc biệt đối với những Ông đồng thường “ái nữ” (là đàn ông nhưng cũng ẻo lả như đàn bà). Bởi vậy, dân gian nhận xét ai đó “tính đồng bóng” hay trông “đồng cô quá” là vì thế.
Những ai có thể hầu đồng?
Đa số những người hầu đồng là do hoàn cảnh bản thân thúc ép, do di truyền gia tộc hay bản tính có căn đồng. Người nào có “căn” mà chưa ra hầu Thánh thì thường bị bệnh tật, ốm đau, mà đây là thứ bệnh “âm”, chữa chạy bằng thuốc thang không khỏi, khi làm ăn thường thất bát, thua thiệt. Dân gian gọi hiện tượng này là “cơ đày”, tức người đang bị Thánh đày ải. Ra đồng rồi thì thường sức khoẻ hồi phục, làm ăn được hanh thông.
Một khi đã bị Thánh nhập, tức ra trình đồng rồi thì hàng năm, tuỳ theo lịch tiết, đặc biệt là vào dịp “tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ”, các Bà đồng, Ông đồng thường phải tổ chức làm lễ Lên đồng. Trong nghi lễ như vậy, theo quan niệm dân gian, các vị Thánh từ các miền khác nhau của vũ trụ bay về nhập hồn vào thân xác các Bà, Ông đồng.
Chuẩn bị cho một giá hầu đồng
Lễ vật hầu đồng
Lễ vật trong mỗi vấn hầu trước kia thường đơn giản. Vật phẩm cơ bản gồm xôi, thịt, hoa quả, trầu, cau, rượu, thuốc, vàng mã,… Ngày nay, lễ vật ngày càng phong phú, gồm cả những sản phẩm hàng hóa công nghiệp, thực phẩm đương thời, đắt tiền, dùng trong cả lễ mặn và lễ chay.
Lễ vật trình đồng phải khác với lễ vật hầu bản mệnh hay tiệc khao, được trình bày trên một kỷ tháp hình chữ nhật kê chính giữa và gồm những thứ sau đây:
Chén đũa bạc, đĩa và cốc pha lê. Chính giữa là một cái gương trên phủ một chiếc khăn thêu. Hai bên bục và trước kỷ (bày bốn mâm lễ Tứ Phủ mỗi mâm có chín quả trứng, một cái lược, một cái quạt, một đôi guốc, chín vuông vải màu phủ lên trên. Màu phải là màu chính của Tứ Phủ (xanh, đỏ, trắng và vàng). Bên cạnh mâm lễ có một cái chung nhỏ, một cái thau nhỏ. Cứ mỗi lễ phải thay một hình nhân (nộm) và bốn lốt. Bên cạnh mâm lễ Tứ phủ là mâm lễ sơn trang, mà bất cứ thứ lễ gì cũng phải chia ra làm 13 phần. Một phần lớn bày ở giữa còn 12 phần nhỏ bày xung quanh. Ngay cạnh đó là một mâm hài sơn trang (hoặc giống) màu. Mũi hài có thêu hình chim phượng. Một trăm vàng thoi (giấy vàng xếp thành thoi).
Dàn nhạc hầu bóng (hầu đồng)
Thường gồm có 1 đàn nguyệt, 1 đàn nhị, 1 sáo, 1 trống lớn, 1 trống nhỏ, 1 cảnh đôi, 1 phách. Tùy từng địa phương, tùy hoàn cảnh hành lễ mà người ta có thể thêm bớt nhạc cụ này hoặc nhạc cụ khác, nhưng người ta không thể bớt đi đàn nguyệt, trống nhỏ, cảnh đôi vì đây là những nhạc cụ nòng cốt, nhạc cụ tính cách của dàn nhạc hầu bóng.
Hay Trang phục hầu đồng
Có bao nhiêu giá đồng thì tương ứng với ngần ấy bộ trang phục và trang sức đi kèm. Dân gian truyền lại có 36 giá đồng tương ứng với 36 vị Thánh và điều đó có nghĩa là sẽ có 36 bộ trang phục dành cho các giá đồng. Vì vậy người hầu đồng sẽ phải chuẩn bị đầy đủ trang phục tùy theo định hầu mấy giá.
Cô đồng, hay các ông đồng khi giá hầu
Ngoài Ông đồng hay Bà đồng thường có thêm hai hoặc bốn phụ đồng (được gọi là nhị trụ hoặc tứ trụ hầu dâng) đi theo để chuẩn bị trang phục, lễ lạt…
Lễ mở phủ trình đồng
Bắt đầu buổi hầu đồng người ta đặt các lễ vật lên hương án. Người hầu đồng để các dụng cụ lên chiếu đồng, bước lên chiếu đồng, lấy hoa xoa lên mặt, quần áo rồi vẩy xung quanh để tẩy uế. Cung văn lên dây đàn, dạo nhạc, hát văn công đồng.
Ba động tác tiên khởi mà người hầu đồng phải làm là: Chấp tay chờ cho phụ đồng phủ khăn diên lên đầu trùm cả tay xong thì đưa tay lên trán rồi bước chân trái lên một bước, chân phải chụm lên với chân trái, lặp lại thêm hai lần mới quỳ xuống. Người hầu đồng làm lễ vái dập người, hai tay chống xuống chiếu, mặt úp sát, vái ba lễ. Sau đó đứng dậy đi dật lùi ba bước về vị trí cũ. Giá đệ nhất được bắt đầu.
Cũng như giá đầu, khi sang một giá khác, người hầu đồng sau khi thay đổi trang phục và lễ cụ sẽ bước lên chiếu đồng, cung văn chuẩn bị tấu nhạc. Người hầu đồng, chit xoa khăn vái, ngồi xếp bằng. Người phụ đồng kính cẩn đưa một chiếc khăn phủ diện mầu đỏ. Hầu đồng cầm khăn, vái mấy vái rồi phủ lên đầu, hai tay cầm hai mép khăn phủ ở đầu gối. Một lúc sau đầu hầu đồng lắc lư, đảo đảo rồi bất ngờ hét lên một tiếng, chỉ ngón trỏ trái lên trời. Đó là dấu hiệu giá quan lớn đệ nhất nhập đồng.
Các giá hầu đồng
Thỉnh Tam Tòa Quốc Mẫu
- Mẫu Đệ Nhất Thiên Tiên Liễu Hạnh Công Chúa
- Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn Quế Hoa Mỵ Nương Công Chúa
- Mẫu Đệ Tam Thoải Cung Xích Lân Long Nữ*: Quốc Mẫu Đệ Tứ(Mẫu Địa)
Nhà Trần
- Đức Ông Trần Triều Quốc Công Tiết Chế Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương
- Vương Mẫu Trần Triều
- Đệ Nhất Vương Tử Hưng Vũ Vương
- Đệ Nhị Vương Tử Hưng Hiến Vương
- Đệ Tam Vương Tử Hưng Nhượng Vương
- Đệ Tứ Vương Tử Hưng Trí Vương
- Vương Tể Phò Mã Phạm Ngũ Lão
- Đệ Nhât Vương Cô Quyên Thanh Công Chúa
- Đệ Nhị Vương Cô Đại Hoàng Công Chúa
- Ông Tả Yết Kiêu
- Ông Hữu Dã Tượng
- Cô Bé Cửa Suốt
- Cậu Bé Cửa Đông
Hội đồng Thánh Chúa
- Chúa Đệ Nhất Tây Thiên
- Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ
- Chúa Đệ Tam Lâm Thao
- Chúa Thác Bờ
- Chúa Long Giao
- Chúa Cà Fê
- Chúa Năm Phương
- Chúa Mọi
Tư Phủ Vương Quan
- Vương Quan Đệ Nhất Thượng Thiên
- Vương Quan Đệ Nhị Giám Sát
- Vương Quan Đệ Tam Thỏai Phủ
- Vương Quan Đệ Tứ Khâm Sai
- Vương Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh
- Tôn Quan Điều Thất*:Quan Bản Đền (Hầu sau các giá quan lớn)
Tư Phủ Chầu bà
- Chầu Đệ Nhất Thượng Thiên
- Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn
- Chầu Đệ Tam Thoải Cung
- Chầu Đệ Tứ Khâm sai
- Chầu Năm Suối Lân
- Chầu Lục Cung Nương
- Chầu Bảy Tân La
- Chầu Tám Bát Nàn Đông Nhung
- Chầu Cửu Tỉnh Sòng Sơn
- Chầu Mười Đồng Mỏ
- Chầu Bé Bắc Lệ
- Chầu Bé Thoải Cung
Tứ Phủ Ông Hoàng
- Ông Hoàng Cả Quận Vân
- Ông Hoàng Đôi Triệu Tường (cũng có nơi hầu giá này sau giá Quan Điều Thất)
- Ông Hoàng Bơ Thoải Cung | Ông Hoàng Bơ Bắc Quốc
- Ông Hoàng Tư Khâm Sai
- Ông Hoàng Năm
- Ông Hoàng Lục Thanh Hà
- Ông Hoàng Bảy Bảo Hà
- Ông Hoàng Bát Nùng
- Ông Hoàng Chín Cờn Môn
- Ông Hoàng Mười Nghệ An
Tứ Phủ Thánh Cô
- Cô Cả Vân Đìng
- Cô Đôi Thượng Ngàn | Cô Đôi Cam Đường
- Cô Bơ Bông | Cô Bơ Tây Hồ
- Cô Tư Ỷ La
- Cô Năm Suối Lân
- Cô Sáu Lục Cung (Cô sáu sơn trang)
- Cô Bảy Kim Giao
- Cô Tám Đồi Chè
- Cô Chín Thượng Ngàn | Cô Chín Giếng (Cô Chín Sòng)
- Cô Mười Mỏ Ba
- Cô Bé Đông Cuông | Cô Bé Tân An | Cô Bé Núi Dùm | Cô Bé Minh Lương | Cô Bé Mỏ Than | Cô Bé Suối Ngang | Cô Bé Thác Bờ | Cô Bé Cây xanh | Cô Bé Bản Đền ………….
- Cô Bé Thoải Cung
Tứ Phủ Thánh Cậu
- Cậu Hoàng Cả Phủ Giầy Cậu Hoàng Cả Sòng Sơn
- Cậu Hoàng Đôi
- Cậu Hoàng Bơ
- Cậu Hoàng Tư
- Cậu Hoàng Năm
- Cậu Hoàng Bé Quận Đồi Ngang
- Cậu Bén Bản Đền
Quan Hạ Ban
- Hoàng Hổ Thần Tướng
- Thanh Hổ Thần Tướng
- Xích Hổ thần Tướng
- Bạch Hổ Thần Tướng
- Hắc Hổ Thần Tướng
- Thanh Xà Đại Tướng
- Bạch Xà Đại Tướng
Ý nghĩa của việc hầu đồng
+ Hầu Đồng là chiếc chìa khóa mở cánh cửa tìm chiếc gương phản chiếu hoàn thiện mình.
+ Trong cuộc đời ai cũng có những sai lầm, nhưng không thể nhận ra. Chỉ những ai tin vào tôn giáo mới ít phạm sai lầm.
+ Tôn giáo giống như một tấm gương, vì vậy chúng ta cần tấm gương đó, để tấm gương đó phản chiếu chúng ta.
+ Tóm lại, để thành người sống có chỗ gửi thác có chỗ về thì phải có Tấm gương soi để nhắc nhở mình, có nơi gửi gắm thần hồn, có nơi nương tựa về tâm linh thì mới hoàn thiện mình.
+ Vậy có căn quả xuất thủ trình đồng, trước tiên ta phải hiểu là: Nhập đạo không phải vì sự độ trì của chư Thánh, hay để nâng cao năng lực thần thông mà là nhập đạo để học hỏi. Đó là một hành trình tìm kiếm Tâm linh là tìm lại chính mình.
+ Vì vậy, hầu đồng không có nghĩa là diễn xướng đơn thuần, mà là quá trình chuyển hóa cái tâm mình từ cuộc sống Vô Minh không có nhận Thức được đúng sai thành trí tuệ, thành thánh đức để nhìn vào những tấm gương của chư Thánh, học theo chư Thánh, khám phá Đạo cơ; để cuộc sống đời thường được chuyển hóa mang đến Hạnh phúc cho mình, cho người xung quanh, cho Thân Tâm Thanh Thản An Lạc.
Hầu đồng có tác dụng gì?
Tác dụng của hầu đồng với xã hội
Với đạo Mẫu, tín ngưỡng thờ Mẫu là hiện thân của mẹ thiên nhiên (Mẹ Thiên cai quản trời, Mẫu Địa cai quản đất, Mẫu Cốm cai quản vùng sông nước, Mẫu Thượng ngàn cai quản rừng) mà mẹ thiên nhiên đã che chở, mang lại điều tốt lành cho mọi người. Đức Thánh là cách giúp con người hòa mình vào thiên nhiên để lắng nghe và thấu hiểu, từ đó thay đổi dần nhận thức để bảo vệ thiên nhiên trước nạn chặt phá rừng, biến đổi khí hậu,…
Thông qua các truyền thuyết huyền thoại và các nghi lễ, lễ hội, ca ngợi các vị Thánh có công trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, lễ hầu đồng đã thể hiện truyền thống yêu nước của dân tộc. Uống nước nhớ nguồn, cầu mong quốc thái dân an.
Khi hầu đồng, chầu văn được cất lên, chúng ta cảm nhận được một không gian tâm linh đầy uy nghiêm và là một bảo tàng sống của văn hóa Việt Nam, các bài văn khấn hầu đồng là một kho tàng văn hóa. nhân văn khổng lồ.
Có thể thấy, Hầu đồng thể hiện sự đoàn kết tôn giáo, từ Phật tử, Nho giáo hay các tôn giáo khác, hay các nhà khoa học, tiểu thương, và nhiều người hoạt động trong lĩnh vực khác cũng đến điểm. Thờ Mẹ, hay có quả với nhà ông, cắt tóc cho con nối tiếp tứ phương.
Tác dụng đối với thanh đồng
Không phải ngẫu nhiên mà Thanh Đồng thường có ngoại hình xinh đẹp. Nếu bạn tham dự một buổi lễ linh thiêng bạn sẽ cảm nhận được luồng Thánh khí bao trùm ngôi đền, lễ thánh là cách để con người trở về cội nguồn và nhận được sự che chở của cha mẹ, giải phóng những năng lượng xấu trong cơ thể và tiếp nhận thánh khí nên sau mỗi vấn hầu đồng nhân thường trở nên mạnh mẽ, linh hoạt hơn, sắc mặt hồng hào.
Những người có căn đồng sau khi lên đồng họ có thể lấy lại được cân bằng trong cuộc sống. Những người kinh doanh họ có niềm tin mãnh liệt vào Thánh Mẫu phù hộ cho họ, niềm tin đó là sức mạnh để họ thực hiện mong muốn kinh doanh thành công.
Hầu Thánh chính là phương thức để giúp con người giải tỏa mọi bức xúc của đời thường để hướng tới Chân – Thiện – Mỹ, làm nên một cuộc sống hạnh phúc hơn.
Tác dụng đối với gia tiên
Trong mỗi buổi hầu thánh, không chỉ đồng nhân được lợi lạc mà tất cả những người đến dự và gia tiên của họ đều được ban tài phát lộc, vì vậy mỗi khi có vấn hầu gia tiên hoan hỷ lắm các bạn ạ, họ đi theo con cháu để hầu hạ nhà ngài và kêu cầu tấu đối cho con cháu mình, gia đình nào có vong linh đi theo hầu Thánh thì sẽ trợ độ rất nhiều cho con cháu.
Đối với gia tiên của Thanh đồng: Khi con cháu mình được chấm đồng bắt lính, gia tiên sẽ tác phúc cho con cháu đi đúng đường, khi con cháu nhất tâm bắc ghế hầu thánh và biết đường tu thì sẽ biết quan tâm đến gia tiên nhiều hơn, biết đường tu còn tạo thêm phúc phần cho dòng họ, bởi vậy xưa mới có câu “ có phúc lấy được cô Đồng, mả táng Hàm Rồng lấy chồng thủ nhang”.
Tác dụng đối với những người tham dự vấn hầu đồng
Hầu đồng không chỉ đơn giản là một hình thức diễn xướng như mọi người thường thấy, mà thông qua ông Đồng bà Đồng đã tái hiện lại hình ảnh các vị Thánh mà lịch sử ghi danh, dân gian ngưỡng mộ, qua việc nhập hồn vào các vị Thánh, tiếp dẫn những lời vàng ngọc dậy cho chúng sinh vận dụng vào cuộc sống thường nhật để tu nhân tích đức, thỏa mãn niềm mong ước được thăng hoa cùng giới thần tiên, hoặc được các ngài ban phước, ban lộc để an ủi tâm linh, lấy làm may mắn trong cuộc sống. Lộc nhà Thánh nhiều không kể xiết nhưng cũng thưởng phạt phân minh, hư là phạt, có công thì thưởng. Thưởng ở đây chính là một hình thức để khuyến khích, giáo dục con người sống tốt hơn.
Có thể nói Hầu Thánh chính là một hình thức đặc biệt của Tín ngưỡng thờ Mẫu tứ phủ, chưa đựng sức mạnh vô hình thiêng liêng qua cách nhập hồn các vị Thánh có thật trong lịch sử, đáp ứng được nguyện vọng văn hóa tâm linh của cộng đồng dân tộc. “Thà đui mà giữ đạo nhà, còn hơn có mắt ông cha không thờ”.
Khái niệm tín ngưỡng
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 2 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định: Tín ngưỡng là niềm tin của con người được thể hiện thông qua những lễ nghi gắn liền với phong tục, tập quán truyền thống để mang lại sự bình an về tinh thần cho cá nhân và cộng đồng.
Khái niệm tôn giáo
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 2 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định: Tôn giáo là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức.
Khái niệm mê tín dị đoan
Mê tín dị đoan là có niềm tin vào những thứ nhảm nhí, mơ hồ, không có thật và không phù hợp với quy luật tự nhiên, chủ yếu xuất hiện trong lĩnh vực tâm linh và dẫn tới những hậu quả xấu không chỉ đối với cá nhân, gia đình mà còn lan ra cả cộng đồng về thời gian, tài sản, sức khỏe, thậm chí là nguy hiểm tới cả tính mạng con người.
Mê tín dị đoan thì bao gồm một số hành vi như là: ông đồng, bà cốt, có niềm tin thái quá vào bói quẻ, coi tay xem tướng, tin vào ngày lành tháng dữ và kiêng kỵ đủ thứ vào những ngày này, tin vào số mạng sang hèn, tin vào cúng sao giải hạn, cúng kem, tin rằng việc cầu cúng sẽ tai qua nạn khỏi, chữa được bệnh tật, tin vào thầy bùa thầy chú, v.v …
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
Ở Việt Nam, để bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, Điều 24 Hiến pháp năm 2013 khẳng định:
“Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”.
Quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo được cụ thể hóa trong Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (được Quốc hội khóa XIV, kỳ họp thứ hai thông qua ngày 18/11/2016) và trong rất nhiều văn bản pháp luật khác, thể hiện qua các nội dung sau:
– Việt Nam thừa nhận, ghi nhận, tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; bảo đảm để các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật;
– Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.
– Mỗi người có quyền bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; thực hành lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo; tham gia lễ hội; học tập và thực hành giáo lý, giáo luật tôn giáo;
– Mỗi người có quyền vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở tôn giáo, lớp bồi dưỡng của tổ chức tôn giáo. Người chưa thành niên khi vào tu tại cơ sở tôn giáo phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
– Chức sắc, chức việc, nhà tu hành có quyền thực hiện nghi lễ tôn giáo, giảng đạo, truyền đạo tại cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm hợp pháp khác.
– Người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; người đang chấp hành án phạt tù; người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc có quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo.
Quy định tội mê tín dị đoan theo luật hình sự
Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định tội mê tín dị đoan như sau:
Điều 320. Tội hành nghề mê tín, dị đoan
1. Người nào dùng bói toán, đồng bóng hoặc các hình thức mê tín, dị đoan khác đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Mê tín, dị đoan theo quy định của luật được hiểu là tin vào một điều mà không có căn cứ, không có cơ sở khoa học và niềm tin này phải là mù quáng. Theo quy định hiện nay hành nghê mê tín được thể hiện dưới một trong những hình thức sau: bói toán, đồng bóng hoặc các hình thức mê tín, dị đoạn khác. Trong đó đồng bóng được hiểu là cho thần thánh mượn thân thể để nhập vào.
Hiện nay theo quy định của pháp luật người nào đó phải hành nghề mê tín dị đoan mới phạm tội. Tức là phải lấy thu nhập từ hoạt động đồng bóng làm nguồn thu, nguồn sống chính. Cho nên những trường hợp khác dù có đồng bóng nhưng không lấy tiền, lấy tài sản khác thì sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên chỉ có thể cấu thành tội này khi người hầu đồng, hầu bóng lợi dụng niềm tin của người khác để nói những điều không có cơ sở khoa học nhằm lấy lợi thì mới phạm tội.
Căn cứ vào quy định trên nhận thấy: nếu bạn không lấy tiền, lấy tài sản khác từ việc hầu đồng, hầu bóng làm nguồn sống chính và không đưa, loan truyền những thông tin sai trái, không có cơ sở thì sẽ không phạm tội. Cho nên người hàng xóm tố cáo bạn trước cơ quan công an tội hành nghề mê tín là chưa có cơ sở.
Mặt khác, vừa quan tín ngưỡng thờ Mẫu đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới nên nếu khẳng định hầu đồng, hầu bóng là vi phạm pháp luật là không có cơ sở.
So sánh giữa tôn giáo và tín ngưỡng
Sự giống nhau giữa tôn giáo và tín ngưỡng
Một là, những người có tôn giáo (Phật giáo, Thiên chúa giáo, đạo Tin lành,…) và có sinh hoạt tín ngưỡng dân gian (tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ Thành hoàng, tín ngưỡng thờ Mẫu,…) đều tin vào những điều mà tôn giáo đó và các loại hình tín ngưỡng đó truyền dạy, mặc dù họ không hề được trông thấy Chúa Trời, đức Phật hay cụ kỵ tổ tiên hiện hình ra bằng xương bằng thịt và cũng không được nghe bằng chính giọng nói của các đấng linh thiêng đó.
Hai là, giữa tôn giáo và tín ngưỡng là những tín điều của tôn giáo và tín ngưỡng đều có tác dụng điều chỉnh hành vi ứng xử giữa các cá thể với nhau, giữa cá thể với xã hội, với cộng đồng, giải quyết tốt các mối quan hệ trong gia đình trên cơ sở giáo lý tôn giáo và noi theo tấm gương sáng của những đấng bậc được tôn thờ trong các tôn giáo, các loại hình tín ngưỡng đó.
Sự khác nhau giữa tôn giáo và tín ngưỡng
Một là, nếu tôn giáo phải có đủ 4 yếu tố cấu thành, đó là: giáo chủ, giáo lý, giáo luật và tín đồ, thì các loại hình tín ngưỡng dân gian không có 4 yếu tố đó. Giáo chủ là người sáng lập ra tôn giáo ấy (Thích ca Mâu ni sáng lập ra đạo Phật, đức chúa Giê su sáng lập ra đạo Công giáo, nhà tiên tri Mô ha mét sáng lập ra đạo Hồi,…); giáo lý là những lời dạy của đức giáo chủ đối với tín đồ; giáo luật là những điều luật do giáo hội soạn thảo và ban hành để duy trì nếp sống đạo trong tôn giáo đó; tín đồ là những người tự nguyện theo tôn giáo đó.
Hai là, nếu đối với tín đồ tôn giáo, một người, trong một thời điểm cụ thể, chỉ có thể có một tôn giáo thì một người dân có thể đồng thời sinh hoạt ở nhiều tín ngưỡng khác nhau. Chẳng hạn, người đàn ông vừa có tín ngưỡng thờ cụ kỵ tổ tiên, nhưng ngày mùng Một và Rằm âm lịch hàng tháng, ông ta còn ra đình lễ Thánh. Cũng tương tự như vậy, một người đàn bà vừa có tín ngưỡng thờ ông bà cha mẹ, nhưng ngày mùng Một và Rằm âm lịch hàng tháng còn ra miếu, ra chùa làm lễ Mẫu,…
Ba là, nếu các tôn giáo đều có hệ thống kinh điển đầy đủ, đồ sộ thì các loại hình tín ngưỡng chỉ có một số bài văn tế (đối với tín ngưỡng thờ thành hoàng), bài khấn (đối với tín ngưỡng thờ tổ tiên và thờ Mẫu). Hệ thống kinh điển của tôn giáo là những bộ kinh, luật, luận rất đồ sộ của Phật giáo; là bộ “Kinh thánh” và “Giáo luật” của đạo Công giáo; là bộ kinh “Qur’an” của Hồi giáo,… Còn các cuốn “Gia phả” của các dòng họ và những bài hát chầu văn mà những người cung văn hát trong các miếu thờ Mẫu không phải là kinh điển.
Bốn là, nếu các tôn giáo đều có các giáo sĩ hành đạo chuyên nghiệp và theo nghề suốt đời, thì trong các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian không có ai làm việc này một cách chuyên nghiệp cả. Các tăng sĩ Phật giáo và các giáo sĩ đạo Công giáo đề là những người làm việc chuyên nghiệp và hành đạo suốt đời (có thể có một vài ngoại lệ, nhưng số này chiếm tỷ lệ rất ít). Còn trước đây, những ông Đám của làng có 1 năm ra đình làm việc thờ Thánh, sau đó lại trở về nhà làm những công việc khác, và như vậy không phải là người làm việc thờ Thánh chuyên nghiệp.