Cảnh quan thiên nhiên là gì?
Cảnh quan thiên nhiên là cảnh quan nguyên thủy tồn tại trước khi nó bị tác động bởi văn hóa con người. Cảnh quan thiên nhiên và cảnh quan văn hóa là những bộ phận riêng biệt của cảnh quan. Tuy nhiên, trong thế kỷ XXI cảnh quan hoàn toàn không bị tác động bởi hoạt động của con người không còn tồn tại nữa, để tham chiếu đôi khi giờ đây được thực hiện ở mức độ tự nhiên trong cảnh quan.
Cụm từ “cảnh quan thiên nhiên” lần đầu tiên được sử dụng liên quan đến vẽ tranh phong cảnh và làm vườn cảnh, để đối chiếu phong cách trang trọng với phong cách tự nhiên hơn, gần gũi với thiên nhiên hơn. Alexander von Humboldt (1769 – 1859) đã tiếp tục khái niệm hóa điều này thành ý tưởng về cảnh quan thiên nhiên tách biệt với cảnh quan văn hóa. Sau đó, vào năm 1908, nhà địa lý Otto Schlüter đã phát triển các thuật ngữ cảnh quan nguyên thủy (Urlandschaft) và cảnh quan văn hóa đối lập của nó (Kulturlandschaft) với nỗ lực cung cấp cho khoa học địa lý một chủ đề khác với các ngành khoa học khác. Việc sử dụng sớm cụm từ “cảnh quan thiên nhiên” của một nhà địa lý học có thể được tìm thấy trong bài báo “The Morphology of Landscape” (Hình thái học của cảnh quan) (1925) của Carl O. Sauer.
Các yếu tố của cảnh quan thiên nhiên
Núi
Chúng là những độ cao lớn của trái đất được tạo ra bởi sự gấp nếp của các khối trong lớp vỏ trái đất. Ở phần trên của nó, họ trình bày một hoặc một số đỉnh. Chúng được nhóm trong các dãy núi.
Cưa
Chúng là độ cao của đất, thẳng hàng, có độ cao thấp hơn núi. Nói chung độ cao thấp hơn của chúng là do thực tế là chúng đã già và phải chịu một quá trình xói mòn lớn hơn.
Đồi
Ngọn đồi cũng là một độ cao của địa hình, nhỏ hơn cưa, tròn. Có thể được tìm thấy một mình, mà không có sự hiện diện của các độ cao khác, hoặc trong các nhóm.
Thung lũng
Chúng là phần mở rộng của vùng đất bằng phẳng, nằm giữa núi hoặc núi. Một dòng nước, như sông hoặc suối, thường chảy qua các thung lũng.
Chúng có màu xanh và màu mỡ. Họ trồng hoa, cây, và tất cả các loại cây và hoa dại. Đó là nơi mà động vật và chim đến nghỉ ngơi và uống.
Đồng bằng
Đất bằng phẳng, bằng phẳng hoặc nhấp nhô của phần mở rộng lớn. Hiện tại không có đồng bằng tự nhiên, vì chúng được sử dụng cho tất cả các loại cây trồng và chăn nuôi cho dinh dưỡng của con người.
Jungles
Những khu rừng là những vùng đất rộng lớn được bao phủ bởi thảm thực vật rất dày đặc. Họ có cây ở các tầng hoặc độ cao khác nhau. Chúng có tính đa dạng sinh học cao, nghĩa là nhiều loài thực vật trên một mét vuông.
Mỗi inch của một khu rừng được bao phủ bởi thảm thực vật: cây bụi, cây leo, rêu, làm cho một lượng lớn nước giữ lại.
Số lượng thực vật khổng lồ của chúng đã cho chúng tên của phổi xanh, vì chúng hòa tan carbon dioxide và giải phóng oxy.
Việc phá rừng là một vấn đề nghiêm trọng vì phần lớn oxy chúng ta thở đến từ chúng.
Rừng
Rừng là khu vực có dân số cây và cây bụi lớn, thường là cùng một loài. Có những khu rừng lá kim, gỗ cứng hoặc hỗn hợp.
Bãi biển
Phù điêu bờ biển hoặc sông, có bề mặt gần như bằng phẳng, hơi nghiêng về phía nước. Chúng có cát, hoặc đá và thảm thực vật nhỏ được quan sát.
Sông hoặc suối
Chúng là những dòng nước chảy trên bề mặt trái đất. Các con sông có những cái giường rộng và rộng và dòng chảy của chúng đến từ nước của những con suối.
Các dòng, mặt khác, hẹp và nông. Dòng chảy của nó đến từ nước mưa, nước tan hoặc nước ngầm, trong trường hợp này được gọi là suối.
Nhu cầu về cảnh quan thiên nhiên
Nhu cầu về cảnh quan thiên nhiên đã tăng lên trong những năm qua kể từ khi con người di cư đến môi trường đô thị. Những thắng cảnh này đã trở thành những địa điểm du lịch khá phù hợp. Có thể môi trường tự nhiên vẫn còn tác động, ngoại trừ việc bố trí một số cơ sở hạ tầng như một cây cầu là một con đường để con người có thể đánh giá cao hoặc vượt qua nó. Mặc dù vậy, các yếu tố của hệ sinh thái trên thực tế vẫn còn nguyên vẹn. Điều này làm tăng giá trị du lịch của nó.
Trong nhiều trường hợp, có những cảnh quan thiên nhiên mà ở đó con người cũng có thể sống trong đó. Chúng ta đang nói về những ngôi làng nhỏ, nơi dân cư rất khan hiếm. Thậm chí đôi khi những người đó không sống gần nhau. Do đó, địa hình hầu như không bị ảnh hưởng gì cả, như hệ động thực vật. Nhiều cảnh quan thiên nhiên được con người bảo vệ để làm giảm tác động của các hoạt động kinh tế đối với hệ sinh thái. Một điều khoản của chính phủ quyết định bảo tồn một vùng lãnh thổ nhất định dựa trên giá trị tài nguyên của nó hoặc giá trị tự nhiên mà nó có. Những môi trường được bảo vệ này được biết đến với cái tên công viên tự nhiên và việc tiếp cận của mọi người thường bị hạn chế hoặc có một số hướng dẫn nhất định để bảo tồn chúng
Bằng cách này, nó được đảm bảo rằng hệ thực vật và động vật của nơi đó có thể tiếp tục phát triển. Ngoài các công viên tự nhiên, còn có các di tích và khu bảo tồn thiên nhiên. Mỗi môi trường này đều có luật pháp để bảo vệ.
Cảnh quan thiên nhiên và văn hóa
Như chúng tôi đã đề cập trước đây, cũng có một cảnh quan văn hóa đề cập đến những nơi đô thị được phát triển bởi con người. Trong một cảnh quan văn hóa, chúng ta quan sát các tòa nhà, đường xá, quảng trường và cầu, cùng những thứ khác. Sự khác biệt giữa cảnh quan văn hóa và cảnh quan thiên nhiên là rất dễ nhận thấy sự can thiệp của con người. Bạn có thể dễ dàng nhận thấy rằng trước đây nó là một dạng tự nhiên và bây giờ nó đã được sửa đổi. Chúng tôi sửa đổi môi trường tự nhiên để phát triển cuộc sống của chúng tôi và thỏa mãn các nhu cầu. Ở thành phố, con người chúng ta sống và phát triển công việc, chúng ta làm việc, học tập, chúng ta mua các sản phẩm thiết yếu, chúng ta vui chơi, v.v. Nói tóm lại, trong môi trường đô thị, chúng ta tạo nên cuộc sống.
Do đó, trong những môi trường này có các tòa nhà, quảng trường, đường xá, cầu, nhà máy, cánh đồng trồng trọt, Vân vân. Mà cũng được coi là thắng cảnh văn hóa. Để có thể lắp đặt tất cả những điều này, người ta cần phải buộc phải khơi sông, chặt cây, san lấp mặt bằng, để tận dụng đất.
Bảo vệ cảnh quan thiên nhiên
Cảnh quan thiên nhiên là cảnh quan được tạo thành từ các thành phần tự nhiên gồm địa chất, địa hình, khí hậu, thủy văn, thổ nhưỡng, sinh vật. Đây là các thành phần của môi trường tự nhiên, do đó cảnh quan thiên nhiên được coi là một phần của môi trường tự nhiên. So với cách tiếp cận trước đây, mới chỉ quy định bảo vệ riêng lẻ các thành phần môi trường, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên là cách tiếp cận mới – bảo vệ một phần của môi trường tự nhiên. Bảo vệ cảnh quan thiên nhiên là việc bảo tồn và duy trì hình thái, thành phần, cấu trúc, chức năng quan trọng của cảnh quan thiên nhiên – một khu vực được hình thành do tương tác của các yếu tố tự nhiên theo thời gian. Đây không chỉ là bảo vệ các thành phần môi trường riêng lẻ mà là kết quả của sự kết hợp, tương tác giữa các thành phần môi trường tự nhiên theo thời gian.
Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã ban hành chính sách quản lý, bảo vệ cảnh quan, đặc biệt là cảnh quan thiên nhiên. Một số quốc gia ban hành các đạo luật riêng về quản lý, bảo vệ cảnh quan như Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc, một số quốc gia khác ban hành các quy định quản lý, bảo vệ cảnh quan trong các đạo luật liên quan như Nga, Anh. Ngoài ra, nội dung bảo vệ cảnh quan thiên nhiên được đề cập trong các Công ước, hướng dẫn như Công ước cảnh quan châu Âu, hướng dẫn của Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN)…
Các chính sách liên quan đến cảnh quan ở Việt Nam
Các quy định pháp luật đối với bảo vệ cảnh quan ở Việt Nam đã được đề cập trong một số Luật và các văn bản dưới Luật, nội dung chủ yếu tập trung tại các văn bản như: Luật Đa dạng sinh học (ĐDSH) năm 2008, Luật Quy hoạch đô thị năm 2009, Luật Khoáng sản năm 2010, Luật Di sản văn hóa năm 2013, Luật BVMT năm 2014, Luật Lâm nghiệp năm 2017, Luật Quy hoạch năm 2017. Tuy nhiên, cảnh quan đang được hiểu theo các khía cạnh khác nhau, chưa có khái niệm (thuật ngữ) cảnh quan thể hiện được toàn diện các nội hàm cảnh quan đúng với khoa học và thực tiễn.
Luật ĐDSH năm 2008 quy định về Khu bảo vệ cảnh quan gồm có Khu bảo vệ cảnh quan cấp quốc gia và Khu bảo vệ cảnh quan cấp tỉnh. Khu bảo vệ cảnh quan cấp quốc gia phải có các tiêu chí chủ yếu: Có hệ sinh thái đặc thù; Cảnh quan môi trường, nét đẹp độc đáo của tự nhiên; Có giá trị về khoa học, giáo dục, du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng. Khu bảo vệ cảnh quan cấp tỉnh là khu thuộc quy hoạch bảo tồn ĐDSH của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nhằm mục đích bảo vệ cảnh quan trên địa bàn nhưng không đáp ứng các tiêu chí thành lập khu bảo vệ cảnh quan cấp quốc gia.
Luật Quy hoạch Đô thị năm 2009 đưa ra yêu cầu đối với quy hoạch đô thị là cần BVMT, cải thiện cảnh quan, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên.
Luật Khoáng sản năm 2010: Quy định về nguyên tắc hoạt động khoáng sản phải gắn với BVMT, cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh và các tài nguyên thiên nhiên khác.
Luật BVMT năm 2014 quy định hoạt động BVMT được khuyến khích bao gồm bảo vệ cảnh quan thiên nhiên và ĐDSH. Tuy nhiên, nội dung của Luật chưa có các quy định chi tiết về bảo vệ cảnh quan thiên nhiên.
Luật Di sản văn hóa năm 2013 “Cảnh quan thiên nhiên” được đưa vào khái niệm “Danh lam thắng cảnh’ và là một trong các tiêu chí quan trọng để xác định, phân loại danh lam thắng cảnh
Luật Lâm nghiệp năm 2017 đưa ra quy định Khu bảo vệ cảnh quan bao gồm rừng bảo tồn di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh; rừng tín ngưỡng; rừng BVMT đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao. Luật nghiêm cấm các hoạt động trái quy định của pháp luật làm thay đổi cấu trúc cảnh quan tự nhiên của hệ sinh thái rừng.
Luật Quy hoạch năm 2017 về nội dung quy hoạch ngành quốc gia quy định rõ: Quy hoạch bảo tồn ĐDSH quốc gia bao gồm khu vực ĐDSH cao, cảnh quan sinh thái quan trọng. Đây là đối tượng quy hoạch về bảo tồn được quan tâm nhất trong các quy hoạch BVMT và ĐDSH vì chúng nằm ngoài khu bảo tồn thiên nhiên, không có sự chồng lấn với hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên (hệ thống rừng đặc dụng) đang tồn tại.
Nhu cầu thực tiễn của việc lồng ghép các quy định bảo vệ và quản lý cảnh quan thiên nhiên vào trong các chính sách BVMT
Trên thế giới, khu vực và ở Việt Nam, nhiều hoạt động đầu tư phát triển làm phá hủy/phá vỡ toàn bộ cảnh quan hay một trong những hợp phần tạo nên cảnh quan thiên nhiên, mặc dù đạt được các ích lợi kinh tế và có thể là cả xã hội trước mắt, nhưng đã và đang để lại hoặc dẫn đến những hậu quả lâu dài.
Trường hợp “vĩ đại” nhất là các dự án thủy lợi được xây dựng trong giai đoạn phát triển Liên Xô cũ từ năm 1960 đã làm mất đi nguồn nước cấp cho biển Aral (bên cạnh biển Caxpiên) khiến cho biển Aral thu hẹp diện tích, tạo điều kiện cho việc hình thành sa mạc Aralkum trên khu vực đáy biển của biển Aral cũ vào năm 2010 (sau 50 năm thủy lợi hóa), được xem là bài học lớn của thế giới đương đại khi không bảo vệ cảnh quan.
Việt Nam nổi tiếng với rất nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp, các công cụ quản lý tác động môi trường như đánh giá môi trường chiến lược đối với các quy hoạch và đánh giá tác động môi trường đối với các hoạt động đầu tư phát triển đã có một lịch sử hơn 20 năm tồn tại, góp phần quan trọng vào việc BVMT tự nhiên cho con người. Tuy nhiên, vẫn còn không ít các trường hợp, cảnh quan thiên nhiên đã bị biến đổi theo hướng tiêu cực, rất khó hoặc không thể phục hồi lại trạng thái ban đầu.
Ở nhiều địa phương, quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội phá vỡ hay xâm hại các cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử – văn hóa; ít quan tâm đến các cảnh quan có tầm quan trọng về môi trường, sinh thái như: khu đất ngập nước có tầm quan trọng, các khu vực có ĐDSH cao, hành lang ĐDSH (nằm ngoài các khu bảo tồn thiên nhiên theo quy định của pháp luật về lâm nghiệp và ĐDSH), công viên, không gian xanh lớn, vành đai xanh, rừng, sông, suối, dòng chảy quan trọng tại các khu vực đô thị và nông thôn; chưa chú trọng đến tính tổng thể và mối liên hệ chặt chẽ giữa các hợp phần của cảnh quan.
Trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa 20 năm gần đây, các dải đất ven miền Trung từ Thanh Hóa đến Ninh Thuận đã là địa bàn khai thác quặng hỗn hợp titan trong một thời gian dài. Việc này dẫn đến sự phá hủy cảnh quan các cồn cát ven biển, đưa đến những hậu quả to lớn về môi trường sinh thái và cảnh quan. Các dự án khu nghỉ dưỡng tại một số khu bảo tồn thiên nhiên là rừng đặc dụng tại nhiều tỉnh từ miền Bắc đến miền Trung; các hoạt động đầu tư xây dựng ven bờ biển vịnh Hạ Long; các dự án tại tỉnh Hà Giang như dự án tâm linh Lũng Cú thuộc xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn hay nhỏ hơn như điểm quan sát tại Mã Pì Lèng thuộc các xã Pải Lủng và Pả Vi, huyện Mèo Vạc… là các dự án đã làm biến dạng các cảnh quan thiên nhiên rất đẹp và quan trọng đối với đất nước.
Vậy nguyên nhân nào dẫn đến những hậu quả bất lợi nêu trên. Đó là còn thiếu các quy định pháp luật, các hướng dẫn kỹ thuật về đánh giá tác động đến cảnh quan thiên nhiên trong quá trình đánh giá môi trường chiến lược đối với các quy hoạch, trong đó có quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội cấp tỉnh; thiếu những quy định pháp lý cũng như các hướng dẫn kỹ thuật về đánh giá các tác động bất lợi đến hình thái, cấu trúc và chức năng của các cảnh quan quan trọng trong quá trình đánh giá tác động môi trường, lựa chọn địa điểm cũng như thiết kế của dự án đầu tư.
********************
Đăng bởi: Trường THPT Ngô Thì Nhậm
Chuyên mục: Tổng hợp