Đề bài: Cảm nhận về tác phẩm: Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ
3 bài văn mẫu Cảm nhận về tác phẩm: Chuyện người con gái Nam Xương
Bạn đang xem: Cảm nhận về tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương
1. Cảm nhận về tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương, mẫu số 1:
Nguyễn Dữ là nhà văn lỗi lạc của đất nước ta trong thế kỷ 16. Vốn là học trò giỏi của Trạng Trình – Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ngoài thơ, ông còn để lại tập văn xuôi viết bằng chữ Hán, gồm có 20 truyện ghi chép những mẩu chuyện hoang đường lưu truyền trong dân gian; cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả. Đằng sau mỗi câu chuyện thần kỳ. “Truyền kì mạn lục” chứa đựng nội dung phê phán những hiện thực xã hội đương thời được nhìn dưới con mắt nhân đạo của tác giả.
“Chuyện người con gái Nam Xương” trích trong “Truyền kì mạn lục” ghi lại cuộc đời thảm thương của Vũ Nương, quê ở Nam Xương thuộc tỉnh Nam Hà ngày nay.
.Vũ Nương là một người đàn bà nhan sắc và đức hạnh “có tư dung tốt đẹp” tính tình “thuỳ mị nết na”. Trương Sinh xin mẹ trăm lạng vàng cưới nàng về, sum họp gia thất. Thời buổi chiến tranh loạn lạc, chồng phải đi lính đánh giặc Chiêm. Vũ Nương ở nhà lo bề gia thất. Phụng dưỡng mẹ già nuôi dạy con trẻ, đạo dâu con, nghĩa vợ chồng, tình mẹ con, nàng giữ trọn vẹn, chu tất. Khi mẹ chồng già yếu qua đời, một mình nàng lo việc tang ma, phận dâu con giữ tròn đạo hiếu. Có thể nói Vũ Nương là một người đàn bà có phẩm chất tốt đẹp, đáng được trân trọng ngợi ca. Ước mơ của nàng rất bình dị. Tiễn chồng ra trận, nàng không hề mơ tưởng “đeo ấn phong hầu”, chỉ mong ngày đoàn tụ, chồng trở về “được hai chữ bình yên”.
Cũng như số đông người phụ nữ ngày xưa. Cuộc đời của Vũ Nương là những trang buồn đầy nước mắt. Năm tháng trôi qua, giặc tan, Trương Sinh trở về, con thơ vừa học nói. Tưởng rằng hạnh phúc sẽ mỉm cười với đôi vợ chồng trẻ. Nhưng rồi chuyện “cãi bóng” từ miệng đứa con thơ đã làm cho Trương Sinh ngờ vực, “đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có ý gỡ ra được”. Vốn tính hay ghen, lại gia trưởng, vũ phu, ít được học hành, Trương Sinh đã đối xử với vợ hết sức tàn nhẫn. Giấu biệt lời con nói. Trương Sinh đã ” mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi”. Vợ phân trần, không tin; hàng xóm khuyên can cũng chẳng ăn thua gì cả! Chính vì chồng và con – những người thân yêu nhất của Vũ Nương đã xô đẩy nàng đến bên bờ vực thẳm. Thời chiến tranh loạn lạc, nàng đã trải qua những năm tháng cô đơn, giờ đây đứng trước nỗi oan, nàng chỉ biết nuốt nước mắt vào lòng…Vũ Nương chỉ có một con đường để bảo toàn danh tiết: nhảy xuống sông Hoàng Giang tự tử để làm sáng ngời “ngọc Mị Nương “, toả hương “cỏ Ngu Mĩ”.
Vũ Nương tuy không phải “làm mồi cho tôm cá”, được các nàng tiên trong thủy cung của Linh Phi cứu thoát. Thế nhưng, hạnh phúc của nàng ở trần thế bị tan vỡ “trâm gãy bình rơi”. Nàng tuy được hầu hạ Linh Phi, nhưng quyền làm mẹ, làm vợ của nàng vĩnh viễn không còn nữa. Đó là nỗi đau đớn nhất của một người phụ nữ. Gần ngàn năm đã trôi qua, miếu vợ chàng Trương vẫn còn đó, đêm ngày “nghi ngút đầu ghềnh toả khói hương” (Lê Thánh Tông), nhưng lời nguyền về cái chết của Vũ Nương vẫn còn để lại nhiều ám ảnh, nỗi xót thương trong lòng người. Nguyễn Dữ đã ghi lại câu chuyện cảm động thương tâm này với tất cả tấm lòng nhân đạo. Cái chết đau thương của Vũ Nương còn có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc. Nó lên án chiến tranh phong kiến đã làm cho lứa đôi phải ly biệt, người vợ trẻ sống vất vả cô đơn; lên án lễ giáo phong kiến khắt khe với tệ gia trưởng độc đoán, gây nên bi kịch gia đình, làm tan vỡ hạnh phúc. Vì lẽ đó mà “Chuyện người con gái Nam Xương” có giá trị nhân bản sâu sắc.
Phần hai của truyện đầy ắp những tình tiết hoang đường: Phan Lang nằm mộng rồi có người đem biếu con rùa xanh; Phan Lang chạy giặc, bị chết đuối, được Linh Phi cứu sống đặng trả ơn; Phan Lang gặp người làng là Vũ Nương trong bữa tiệc nơi cung Thuỷ cung; Vũ Nương gửi đôi hoa vàng về cho chồng. Trương Sinh lập đàn tràng trên bến Hoàng Giang, đợi gặp vợ, nhưng chỉ thấy bóng Vũ Nương với năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện, vv…
Chi tiết Trương Sinh gọi vợ, rồi chỉ nghe tiếng nói ở giữa sông vọng vào: “Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa” đó là một chi tiết, một câu nói vô cùng xót xa, đau đớn. Hạnh phúc bị tan vỡ khó mà hàn gắn được vì hai cõi âm – dương là một khoảng trống vắng mênh mông, mù mịt. Trương Sinh ân hận vì mình nông nổi, vũ phu mà vợ chết oan, bé Đản mãi mãi mồ côi mẹ… Qua đó, ta thấy đằng sau cái vỏ hoang đường, câu chuyện về cái chết của Vũ Nương thấm đẫm tình cảm nhân dạo.
Nguyễn Dữ là một trong những cây bút mở đầu nền văn xuôi dân tộc viết bằng chữ Hán. Ông đã đi tiếp con đường của thầy mình: treo ấn từ quan, lui về quê nhà “đóng cửa, viết sách”. Ông là nhà văn giàu tình thương yêu con người, trân trọng nền văn hoá dân tộc.
“Truyền kì mạn lục” là kiệt tác của nền văn học cổ Việt Nam, xứng đáng là “thiên cổ kỳ bút”. Người đọc mãi mãi thương cảm Vũ Nương, thương cảm những người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. “Chuyện người con gái Nam Xương ” tố cáo hiện thực xã hội phong kiến Việt Nam trong thế kỷ 16, nêu bật thân phận và nỗi đau bất hạnh của người phụ nữ trong bi kịch gia đình.
Gần 500 năm sau, “Chuyện người con gái Nam Xương” mà nỗi xót thương đối với số phận bi thảm người vợ, người mẹ như được nhân lên nhiều lần khi ta đọc bài thơ “Miếu vợ chàng Trương” của vua Lê Thánh Tông:
“Nghi ngút đầu ghềnh toả khói hương,Miếu ai như mếu vợ chàng Trương.Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ,Cung nước chi cho lụy đến nàng.Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệtGiải oan chẳng lọ mấy đàn tràngQua đây mới biết nguồn cơn ấyKhá trách chàng Trương khéo phũ phàng.”
2. Cảm nhận về Chuyện người con gái Nam Xương, mẫu số 2:
Chuyện người con gái Nam Xương là một truyện hay trong Truyền kì mạn lục, một tác phẩm văn xuôi bằng chữ Hán ở Việt Nam thế kỉ XVI. Truyện được Nguyễn Dữ viết trên cơ sở một truyện dân gian Việt Nam, cốt truyện và nhân vật gắn liền với một không gian cụ thể, một chứng tích cụ thể để phản ánh một vấn đề bức thiết của xã hội đương thời, đó là thân phận con người nói chung, người phụ nữ nói riêng trong xã hội phong kiến.
Truyện kể về cuộc đời và số phận bi đát của Vũ Nương, người con gái huyện Nam Xương nết na, thuỳ mị. Chồng nàng là Trương Sinh con nhà giàu có, nhưng ít học, vốn tính đa nghi, đối với vợ thường phòng ngừa quá mức. Khi chồng đi lính, nàng sinh con trai và hết lòng dạy con, chăm sóc mẹ chồng. Khi giặc tan, Trương Sinh trở về thì mẹ đã qua đời, con trai đang học nói. Đứa con nhất Định không chịu nhận chàng là bố vì bố nó “đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi”. Nghe con nói, chàng ngờ vợ thất tiết, đánh đuổi nàng đi. Uất ức quá, nàng gieo mình xuống sông mà chết. Được các nàng tiên cứu, nàng sống thuỷ chung cùng vợ vua Nam Hải. Một lần gặp người làng là Phan Lang cũng được tiên cứu, nàng nhờ Phan Lang về nói với chồng lập đàn giải oan cho nàng. Trong lễ giải oan nàng hiện về và ngỏ lời từ biệt chàng vĩnh viễn.
Câu chuyện chỉ là một vụ ghen tuông bình thường trong một gia đình cũng bình thường như trăm nghìn gia đình khác, nhưng có ý nghĩa tố cáo xã hội vô cùng sâu sắc. Một người phụ nữ nết na lấy phải một anh chồng hay ghen lại độc đoán. Và chỉ vì một chuyện bông đùa với con khi xa chồng, vì chồng nàng quá tin lời con trẻ, nghĩ oan cho nàng, tàn nhẫn đối với nàng khiên nàng phải tìm cái chết trên bến Hoàng Giang. Nỗi oan tày đình của nàng đã vượt ra ngoài phạm vi gia đình, là một trong muôn vàn oan khốc trong xã hội vùi dập thân phận con người, nhất là người phụ nữ. Sống trong xã hội phong kiến đầy rẫy oan trái, bất công, quyền sống con người không được đảm bảo, người phụ nữ với số phận bèo dạt, mây trôi, có thể gặp bao nhiêu tai họa giáng xuống đầu mình vào bất cứ lúc nào vì những nguyên cớ vu vơ không thể tưởng tượng được. Rõ ràng xã hội phong kiến suy tàn đã sinh ra những Trương Sinh đầu óc nam quyền độc đoán, đã là nguyên nhân sâu xa của những đau khổ của người phụ nữ. Vì vậy, khi sống ở thuỷ cung, nàng đã có lúc định trở về quê cũ. Nhưng tại lễ giải oan, mặc dù nặng lòng với quê hương, lỗi lầm xưa của chồng, nàng cũng đã tha thứ, nhưng nàng vẫn dứt áo ra đi, đánh phải sống ở cõi chết: “Đa tạ tình chàng, thiếp chàng thể trở về nhân gian được nữa”.
Chi tiết mang tính chất truyền kì này đã nói lên thái độ phủ định của Vũ Nương, của người phụ nữ đương thời đối với “nhân gian”, đối với xã hội phong kiến thối nát vì ở đó họ không tìm thấy niềm vui, không tìm thấy hạnh phúc.
Bên cạnh giá trị tố cáo xã hội phong kiến suy tàn, Chuyện người con gái Nam Xương còn đề cao phẩm chất giá trị của người phụ nữ. Khi còn sống, Vũ Nương là người vợ đảm dâu hiếu. Lúc sống bên chồng, nàng “giữ gìn khuôn phép”, không lúc nào để vợ chồng thất hoà. Lúc chồng đi lính, một mình nàng quán xuyến mọi việc, nuôi con, phụng dưỡng mẹ chồng đau ốm và khi mẹ chồng mất, nàng lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình.
Còn đối với chồng, nàng một dạ thuỷ chung. Sa khi chết, được sống ở thuỷ cung nguy nga, lộng lẫy, khi Phan Lang gợi đến quê hương, nàng xúc động “ứa nước mắt khóc”. Nàng giãi bày tâm sự :”Có lẽ không thể gửi hình ẩn bóng ở đây mãi để mang tiếng xấu xa. Vả chăng, ngựa Hồ gầm gió bắc, chim Việt đậu cành nam. Cảm vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày”. Đọc đến đây, không ai không xúc động được trước tấm lòng nặng nghĩa nặng tình với quê hương bản quán của nàng. Tuy vừa được cứu sống, tuy được sống trong nhung lụa, bên cạnh có những nàng tiên tốt bụng và là ân nhân của mình, nhưng lòng nàng lúc nào cũng nhớ đến quê cha đất cũ và tâm niệm sẽ có ngày tìm về. Vũ Nương dưới ngòi bút của Nguyễn Dữ lúc sống ở trần thế với cuộc sống đời thường cũng như khi làm tiên ở thuỷ cung lộng lẫy đều là một người phụ nữ đẹp, đẹp cả về hình dáng, cả về phẩm giá, về tâm hồn. Người phụ nữ đó lẽ ra phải sống cuộc đời hạnh phúc. Nhưng tiếc thay xã hội phong kiến đã chà đạp lên cuộc đời nàng.
Như phần trên đã nói, viết Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyễn Dữ đã lấy cốt truyện trong dân gian. Nhưng rõ ràng với tấm lòng yêu thương con người sâu nặng, bằng bút pháp kể chuyện giá dặn, với tình tiết lúc thì chân thật đời thường, lúc thì kì ảo hoang đường, ông đã xây dựng được hình tượng nhân vật vô cùng sống động, mang ý nghĩa xã hội cao. Do đó tác phẩm của ông đã giáo dục chúng ta lòng yêu thương con người sâu sắc, lòng quyết tâm sống chiến đấu vì quyền sống và hạnh phúc con người.
3. Cảm nhận Chuyện người con gái Nam Xương, mẫu số 3:
Tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” lấy nguồn cảm hứng từ những số phận người phụ nữ trong xã hội cũ. Một xã hội phong kiến với nhiều phong tục tập quán, với nhiều luật lệ thiếu sự công bằng ” trọng nam khinh nữ” đã đẩy những người phụ nữ tới chỗ chịu cảnh oan tình, không biết ngỏ cùng ai, cùng quẫn tới mức phải tìm tới cái chết để có thể chứng minh mình trong sạch.
Tập truyện Truyền kỳ mạn lục là một cuốn truyện nổi bật, để lại tên tuổi cho tác giả Nguyễn Dữ bởi những tình tiết ly kỳ, hấp dẫn có chút hoang tưởng. Nhưng lại khiến người đọc cảm thấy hả hê, hài lòng bởi có những việc mà trong xã hội cũ con người chưa thể nào làm được, không thể nói lên tiếng nói của mình, thì trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ đã sử dụng yếu tố hoang tưởng ly kỳ để giải quyết mọi tình huống.
Câu chuyện người con gái Nam Xương là tác phẩm nổi bật, nói lên số phận của người phụ nữ lúc bấy giờ và ước mơ của họ về một cuộc sống tốt đẹp hơn, được yêu thương, có quyền quyết định vận mệnh tương lai của mình.
Câu chuyện này được tác Nguyễn Dữ viết dựa trên một cốt truyện có sẵn truyền miệng trong dân gian Việt Nam. Nhưng khi tác giả chọn lọc để đưa vào tác phẩm của mình, Nguyễn Dữ đã tinh tế đưa thêm nhiều chi tiết hấp dẫn hơn. Nhưng nội dung câu chuyện không thay đổi. Chuyện người con gái Nam Xương kể về người phụ nữ có phẩm hạnh tốt đẹp, có tâm, có tình, có dung mạo, đức hạnh nhưng lại không được hưởng hạnh phúc trọn vẹn. Cuộc sống của cô phải trải qua nhiều gian nan, tới cuối cùng thì phải tự mình tìm tới cái chết để giải oan và thoát khỏi kiếp nạn oan khuất của mình.
Vũ Nương vốn là một cô gái có dung mạo xinh đẹp, tính tình nết na, hiền thục. Năm vừa tròn đôi chín Vũ Nương được làm mai mối rồi kết hôn với chàng trai tên là Trương Sinh. Một người cùng làng, cha mất sớm chỉ có một bà mẹ già là nơi nương tựa tình thần. Gia cảnh không giàu có nhưng tình cảm vợ chồng đầm ấm, trên dưới thuận hòa. Nhưng hạnh phúc ngắn ngủi, chẳng bao lâu sau chiến tranh xảy ra, nhà vua cho người dán cáo thị khắp nơi bắt những người trai tráng trong làng phải tòng quân đi lính, phục vụ triều đình. Trương Sinh từ biệt mẹ già và người vợ đang của mình lên đường. Nhưng anh không biết rằng ngày anh lên đường ra chiến trận thì Vũ Nương đã mang thai được ít tuần. Những năm tháng chiến tranh đằng đẵng Vũ Nương ở nhà một mực hiếu thảo với mẹ chồng, chăm sóc con nhỏ, giữ tròn đức hạnh của một người vợ nết nam chung thủy, một mực đợi chồng trở về.
Chẳng bao lâu, mẹ của Trương Sinh vì quá mong nhớ con trai, cộng với tuổi già sức yếu nên lâm bệnh nặng qua đời. Mặc dù, Vũ Nương đã chạy chữa khắp nơi nhưng bà vẫn không qua khỏi. Mẹ chồng mất, Vũ Nương buồn lắm vì gia cảnh vốn đã neo người giờ lại càng cô quạnh, mỗi tối chỉ mình cô và đứa con trai nhỏ một mình vò võ trong đêm, để vơi đi nỗi nhớ chồng Vũ Nương đã chỉ lên chiếc bóng của mình trên tường và nói với con trai nhỏ rằng “Ba con đó”. Thằng bé tưởng thật nên nó vui lắm, ríu rít vui đùa bên chiếc bóng và nhầm tưởng đó chính là cha mình thật. Rồi chiến tranh kết thúc ngày mà Trương Sinh trở về cũng tới, Vũ Nương mừng lắm cô hân hoan trong niềm vui tương phùng. Nhưng Trương Sinh vừa về tới nhà nghe tin mẹ mất anh vô cùng đau xót vội vã cõng con trai nhỏ trên lưng ra thăm mộ mẹ. Nhưng thằng bé không chịu theo đi dọc đường nó cứ khóc suốt rồi nhất định không chịu nhận Trương Sinh làm cha. Nó bảo “Ông không phải là cha tôi. Cha tôi đêm nào cũng tới”
Người xưa có câu “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ” vì người già và trẻ con không bao giờ biết nói dối. Chính vì vậy, những lời nói của thằng bé làm cho Trương Sinh vô cùng đau đớn, vốn tính hay ghen giờ lại nghe con trai nó vậy. Nên Trương Sinh tin rằng vợ mình có tình ý với người đàn ông khác trong lúc anh đi lính, Vũ Nương không đã không giữ được đức hạnh của một người vợ. Viếng mộ mẹ xong, Trương Sinh trở về nhà và đuổi đánh Vũ Nương ra khỏi nhà, mặc cho cô giải thích thanh minh thế nào Trương Sinh cũng không nghe. Quá đau đớn trước nỗi oan tình trời không thấu của mình Vũ Nương đã gieo mình xuống dòng sông Hoàng Giang để chứng minh mình trong sạch, chỉ có cái chết mới là giải thoát cho cô lúc này. Sau này, trong một lần không ngủ chong đèn suốt đêm với chiếc bóng của mình trên tường Trương Sinh nghe được con trai nói “Ba tôi đó, Ba tôi về đó” thì anh mới biết rằng mình đã nghi oan cho vợ. Chỉ vì tin lời trẻ nhỏ vô căn cứ mà Trương Sinh đuổi đánh vợ ra khỏi nhà khiến nàng uất ức mà chết oan. Nhưng mọi sự hối hận cũng đã quá muộn màng.
Chuyện người con gái Nam Xương đã nêu lên được hiện thực xã hội của nước ta thời xưa một cách sâu sắc chân thực nhất. Ở đầu câu chuyện ta thấy người xưa dùng tiền và mai mối để cưới Vũ Nương về, chứng tỏ Vũ Nương không hề có quyền quyết định hạnh phúc tương lai của mình. Họ lấy nhau không hề có tình yêu, mà do cha mẹ hai bên sắp đặt. Người con gái chỉ như một món hàng, trong trường hợp của Vũ Nương có được xin cưới với 100 lạng vàng. Đó chính là giá trị của con người cô tương ứng với 100 lạng vàng mà thôi. Khi người chồng đi xa Vũ Nương ở nhà làm lụm, chăm chỉ, chăm mẹ chồng chăm con, chờ chồng hiếu đạo thủy chung. Nhưng chỉ một vài lời nói vu vơ của con trẻ mà Trương Sinh có quyền đánh đuổi vợ ra khỏi nhà không cho cô giải thích. Thể hiện sự độc tài, vũ phu, gia trưởng của người con trai thời xưa, không cho người vợ của mình có quyền minh oan lên tiếng, khiến cô phải tìm tới cái chết để rửa oan cho mình. Đồng thời, thông qua câu chuyện này người xưa cũng muốn tố cáo tội ác của chiến tranh, chỉ vì giấc mộng bá chủ thiên hạ mà nhiều nước đã lâm vào tình trạng binh đao. Người dân khốn khổ bởi sinh ly tử biệt, cha xa con, vợ xa chồng dẫn tới những hiểu lầm đáng tiếc trong cuộc sống.
Chính vì vậy, chiến tranh cũng là một phần nguyên nhân dẫn tới nỗi oan khuất của Vũ Nương, nếu không có chiến tranh chồng cô không phải đi lính, mẹ chồng cô không vì nhớ con trai mà qua đời thì cô đâu phải nhớ chồng tới mức coi bóng mình là chồng, để đưa con trai nhỏ không nhận cha của nó, mà chỉ nhận chiếc bóng làm cha. Sự hiểu lầm của Trương Sinh dành cho Vũ Nương có một phần trách nhiệm thuộc về chiến tranh về hoàn cảnh giặc dã lúc đó. Thông qua câu chuyện người đọc cảm thấy thương cảm cho số phận người phụ nữ khi họ phải phụ thuộc hạnh phúc, mạng sống của mình vào người đàn ông của mình, bởi người phụ nữ xưa phải chịu cảnh tam tòng, tứ đức ” Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”, khi sống cùng cha mẹ thì nghe lời cha mẹ, lấy chồng thì theo chồng, chồng chẳng may qua đời thì phải theo con.
Người phụ nữ cả cuộc đời chẳng có lúc nào được sống cho mình, được tự mình quyết định hạnh phúc. Đó chính là những bất công, mà xã hội xưa đã khoác lên số phận người phụ nữ.
———————HẾT————————-
Như vậy chúng tôi đã gợi ý Cảm nhận về tác phẩm: Chuyện người con gái Nam Xương bài tiếp theo, các em chuẩn bị cho phần Viết đoạn văn ngắn phân tích ý nghĩa của việc Vũ Nương không trở về nhân gian nữa và cùng với phần Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ của em về nhân vật Trương Sinh trong Chuyện người con gái Nam Xương để có thể hiểu rõ hơn về nội dung này.
Đăng bởi: THPT Ngô Thì Nhậm
Chuyên mục: Giáo Dục