Cảm nhận về nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng bao gồm dàn ý chi tiết cùng 21 bài văn mẫu hay nhất được thầy cô chọn lọc từ các bài văn đạt điểm cao của các em học sinh giỏi trên toàn quốc sẽ là tài liệu quý giúp các em có thêm nhiều ý tưởng để hoàn thiện bài tập làm văn của mình trở nên sinh động, cuốn hút hơn.
Đề bài: Cảm nhận về nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng
Dàn ý Cảm nhận về nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà
1. Mở bài
Giới thiệu về truyện ngắn Chiếc lược ngà và nhân vật bé Thu:
– Chiếc lược ngà là truyện ngắn xúc động về tình cảm gia đình trong chiếc tranh.
– Qua nhân vật bé Thu, tình cảm cha con được tái hiện chân thực, xúc động.
2. Thân bài
* Tình huống truyện:
– Sau 8 năm xa cách, ông Sáu trở về thăm gia đình, quê hương.
– Ông Sáu háo hức, mong chờ gặp con gái nhỏ nhưng bé Thu không chịu nhận cha
– Ngày bé Thu hiểu mọi việc và nhận cha cũng là ngày ông Sáu phải lên đường.
* Nhân vật bé Thu
– Bướng bỉnh, không chịu nhận ông Sáu là ba:
- Bất ngờ, sợ hãi khi được ông Sáu ôm vào lòng và gọi con
- Xa lánh, từ chối mọi hành động quan tâm của ông Sáu
- Không chịu gọi ông Sáu là ba, nói trổng khi muốn nhờ ông Sáu giúp đỡ.
- Hất tung cái trứng được ông Sáu gắp vào bát trong bữa ăn
- Giận dỗi bỏ sang bà ngoại khi bị ông Sáu đánh
=> Bướng bỉnh, cự tuyệt quyết liệt
– Tình thương ba sâu sắc
- Bé Thu không chịu nhận ba vì trong bức ảnh chụp với má, ba không có vết thẹo trên mặt
- Khi được bà giải thích, Thu hiểu ra tất cả à thấy hối hận và có lỗi vô cùng
- Cất tiếng gọi ba khi ông Sáu chuẩn bị lên đường, hôn lên vết sẹo dàu trên má ba.
- Không muốn ông Sáu rời đi
=> Tình thương cha sâu sắc
3. Kết bài
Suy nghĩ của em về nhân vật bé Thu:
– Tình thương cha sâu sắc, tha thiết
– Những chuyển biến trong suy nghĩ và hành động của bé Thu làm cho câu chuyện về tình cảm cha con thêm xúc động, hấp dẫn.
21 Bài văn mẫu Cảm nhận về nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà lớp 9 hay nhất
Cảm nhận về nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà – Mẫu 1
Tình cảm gia đình là một đề tài quan trọng của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Khai thác mảng đề tài này, Nguyễn Quang Sáng đã có một số tác phẩm đặc sắc như “Chiếc lược ngà”, “Bông cẩm thạch”,.. Trong đó, “Chiếc lược ngà” tạo được nhiều ấn tượng hơn cả. Một trong những yếu tố làm nên thành công của tác phẩm là nhà văn đã xây dựng thành công nhân vật chính – nhân vật bé Thu – một cô bé cá tính, đáng yêu và có tình yêu ba tha thiết.
“Chiếc lược ngà” ra đời năm 1966 rồi được đưa vào tập truyện cùng tên (Chiếc lược ngà) của Nguyễn Quang Sáng. Câu chuyện được xây dựng trên một tình huống hiểu lầm tạo nhiều bất ngờ cảm động: Anh Sáu đi kháng chiến chống Pháp từ khi đứa con duy nhất của anh chưa đầy một tuổi. Từ đó hai ba con chưa hề gặp lại nhau, cho đến khi kháng chiến kết thúc, anh trở vể, đứa con gái tám tuổi không chịu nhận ba. Trong ba ngày ở nhà, bằng đủ mọi cách mà con bé vẫn không chịu gọi lấy một tiếng ba. Đến lúc phải ra đi nhận nhiệm vụ mới, bé Thu mới gọi anh bằng ba. Thật bất ngờ. Thì ra, nó không chịu nhận ba là vì vết thẹo trên má đã khiến anh không còn giống như trong bức ảnh chụp ngày cưới. Con bé chỉ gọi ba khi bà ngoại giải thích cho nó rõ điều này. Giây phút anh nghe được tiếng gọi mà anh chờ đợi đã bao năm ấy cũng là lúc cha con xa nhau. Anh Sáu hứa sẽ mang về tặng con một cây lược. Những ngày chiến đấu trong rừng, anh Sáu cặm cụi làm chiếc lược bằng ngà cho con gái. Chiếc lược đã làm xong nhưng chưa kịp trao cho con gái thì anh hi sinh.
Nhân vật cô bé tám tuổi ấy là Thu, mới có tám tuổi nhưng cô đã bướng bỉnh, gan góc và rất có cá tính. Trong tâm hồn trẻ thơ của bé Thu, chỉ có duy nhất hình ảnh một người ba mà nó biết qua bức ảnh chụp với má ngày cưới. Nó nhất quyết không chịu nhận ông Sáu là ba dù cả nhà – trong đó có bà nội – thừa nhận điều đó. Họ đón ông với tất cả tấm lòng chân thành, yêu thương của con người Nam Bộ. Chẳng những thế, ông còn vô cùng xúc động khi gặp nó. Nhưng bỏ qua tất cả, Thu vẫn hét lên sợ hãi khi ông Sáu lập cập đến với nó và lắp bắp gọi: “Thu! Ba đây con…”. Có điều đó bởi Thu thấy ba nó trong bức ảnh không hề có vết thẹo trên má còn người cứ gọi nó là con, bắt nó gọi bằng ba bây giờ lại có vết thẹo dài trên má.
Không chỉ vậy, qua nhiều chi tiết miêu tả hành động của bé Thu Nguyễn Quang Sáng vừa thể hiện được tính cách đặc biệt của cô bé vừa tỏ ra rất am hiểu tâm lí trẻ thơ. Khi mẹ yêu cầu “mời ba vô ăn cơm”, Thu gọi “trổng” “vô ăn cơm”. Nồi cơm sôi, không tự chắt được con bé nhất quyết không chịu gọi ba để được giúp đỡ. Nó tìm mọi cách chăt nước không cần nhờ vả. Đặc biệt, tính cách rắn rỏi, ngang bướng vô cùng trẻ con của Thu được thể hiện qua chi tiết bé hất đổ cả chén cơm khi anh Sáu gắp cho nó cái trứng cá. Bị ba đánh, tưởng đâu “con bé sẽ lăn ra khóc, sẽ giẫy, sẽ đạp đổ cả mâm cơm, hoặc sẽ chạy vụt đi. Nhưng không, nó ngồi im, đầu cúi gằm xuống. Nghĩ thế nào nó cầm đũa, gắp lại cái trứng cá để vào chén, rồi lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm.”. Đành rằng trẻ con chỉ tin vào những gì chúng thấy, đành rằng bé Thu không thể biết được sự ác nghiệt của bom đạn là thế nào, và nó có cách suy nghĩ theo kiểu trẻ con của nó, nhưng phải thừa nhận rằng cô bé này có một cá tính mạnh mẽ. Sự bướng bỉnh, gan góc đến kì lạ cùa bé Thu đã trở thành tiền đề để sau này trở thành lòng dũng cảm, sự lanh lợi của cô giao liên Thu.
Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó, Thu cùng “Chiếc lược ngà” sẽ nằm lẫn vào vô vàn tác phẩm khác viết cho thiếu nhi. Điều khiến nhân vật cùng tác phẩm đi xa hơn trong lòng người đọc là ở chỗ bé Thu có một tình yêu ba nồng nàn, tha thiết.
Cô bé không nhận ba bởi cô hiểu nhầm về vết sẹo trên mặt ba. Cô đã nghĩ rằng “người ta” mang đến cho mình một người “ba giả”! Và vì thế, Thu càng phản đối quyết liệt người “ba giả” ấy bao nhiêu càng thể hiện cô bé yêu ba mình bấy nhiêu. Cái tình yêu ấy thật sâu sắc: nó chỉ có một, không thể chia sẻ cho bất kì ai khác, ngay cả khi đó là người được tất cả mọi người thừa nhận là ba của nó, là người yêu thương và quan tâm đến nó rất chân thành.
Khi biết rằng ông Sáu là ba thật của mình, và vết sẹo trên mặt ông là do thằng Mĩ gây nên, buổi sáng cuối cùng trong những ngày phép của ba “Con bé như bị bỏ rơi, lúc đứng vào góc nhà, lúc đứng tựa của và cứ nhìn mọi người đang vây quanh ba nó, vẻ mặt của nó có cái gì hơi khác, nó không bướng bỉnh hay nhăn mày cau có nữa, vẻ mặt nó sẩm lại buồn rầu, cái vẻ buồn trên gương mặt ngây thơ của con bé trông rất dễ thương. Với đôi mi dài uốn cong, và như không bao giờ chớp, đôi mắt nó như to hơn, cái nhìn của nó không ngơ ngác, không lạ lùng, nó nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa. ” Không hiểu con bé “nghĩ ngợi sâu xa” điều gì, chỉ biết rằng khi ông Sáu buồn rầu quay lại nhìn nó – không dám lại gần sợ nó lại bỏ chạy như lần trước – nói: “Ba đi nghe con” thì nó bất ngờ lao đến thét lên: Ba., a… a…ba! Rồi ôm chặt lấy ông nức nở “Con không cho ba đi”. Đến đây, người đọc mới vỡ lẽ ra rằng Thu thèm được gọi ba như thế nào. “Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng “ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng nó, nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó.”. Bé Thu là đứa trẻ giàu tình cảm. Thái độ của bé Thu với ba bây giờ trái ngược trong những ngày đầu khi ông Sáu về thăm nhà. Song, trái ngược mà vẫn nhất quán. Vì quá yêu ba, quá khao khát được có ba nên khi nhận định không phải ba nó thì nó nhất định không chịu nhận, nhất định không gọi “ba” lấy một tiếng. Cho nên, khi tiếng gọi như xé kia cất lên ta thấy nó thiêng liêng vô cùng. Tiếng gọi ấy càng trở nên thiêng liêng, quý giá bởi đón chờ nó là cả tấm lòng cao đẹp, thương yêu con vô hạn của người cha.
Trong quá trình thể hiện diễn biến tâm lí nhân vật bé Thu có một chi tiết vô cùng quan trọng: chi tiết cái thẹo. Chính cái thẹo là nguyên nhân gây ra những hiểu lầm trong tình cảm của cha con mà Thu dành cho ba. Cái thẹo là vết thương mà giặc Mĩ gây ra cho ba Thu. Sự chia cắt gia đình không chỉ riêng gia đình bé Thu mà còn hàng triệu gia đình người Việt cũng là do giặc Mĩ gây ra. Thấu hiểu sâu sắc điều đó, sau này, Thu đã trở thành một nữ giao liên dũng cảm, can đảm. Cô đã quyết tâm tiếp bước con đường cha cô đã đi để đánh đuổi kẻ thù của gia đình, kẻ thù của dân tộc.
Xây dựng nhân vật bé Thu – một cô bé bướng bỉnh, cá tính nhưng có tình cảm yêu ba tha thiết cảm động – Nguyễn Quang Sáng đã tỏ ra rất am hiểu tâm lí trẻ thơ bởi vậy nhà văn đã tạo nên được một nhân vật trẻ thơ thực sự sống động gây nhiều niềm xúc động sâu xa trong lòng người đọc. Bên cạnh đó, tác phẩm đã tạo nên một tình huống hiểu lầm độc đáo mà chi tiết quan trọng nhất là chi tiết cái thẹo. Chi tiết này có giá trị giống như một “cái bóng” trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ hay “chiếc lá cuối cùng” trong truyện ngắn cùng tên của Ô Hen-ri,…
Nhân vật bé Thu trong “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc bởi một tính cách đặc biệt khó có thể nhầm lẫn. Nhân vật này đã góp phần tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc cho tác phẩm. Và vì vậy, cùng với tác phẩm, nhân vật bé Thu đã giành được một vị trí riêng trong lòng độc giả yêu truyện ngắn Việt Nam.
Cảm nhận về nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà – Mẫu 2
Trên thế giới này, điều quý báu nhất chính là tình yêu gia đình. Thông qua tác phẩm “Chiếc lược ngà”, tác giả đã cho thấy tình yêu cha con thiêng liêng giữa ông Sáu và bé Thu.
Bé Thu mang trong người tích cách mạnh mẽ, ương bướng lại gan dạ. Về đầu, bé Thu không chịu nhận ông Sáu làm cha cũng chỉ vì bức hình mà cô xem được lại không giống ông Sáu. Những điều đó là vì vết sẹo trên gương mặt ông Sáu. Mặc dù mọi người trong nhà đều khẳng định ông Sáu là cha của cô nhưng cô vẫn không thừa nhận. Nhưng rồi sự thật vẫn là sự thật, tình cha con cũng sẽ chẳng thể nào phủ nhận được. Đến cuối cùng, bé Thu cũng đã chấp nhận ông Sáu làm cha, tình yêu cha cũng dần dần đón nhận ông Sáu, cứ thế từng ngày khắc sâu vào trái tim cô. Một tình yêu sâu sắc mà sẽ chẳng bao giờ mờ nhạt.
Thật ra từ nhỏ bé Thu đã vô cùng yêu cha, điều đó đã được thể hiện rõ nét qua lúc cô không nhận ông Sáu làm cha. Bỏ ngoài tai những lời nói đó là cha của mình, cô vẫn không chịu chấp nhận. Có lẽ, khi đó cô đã nghĩ cha mình không có một vết sẹo trên mặt. Và thêm một phần nào đó trong tim, cô có thể muốn bảo vệ người cha mình hằng mong nhớ từng đêm từng ngày rồi đến từng năm. Trong tiềm thức, cô chỉ xem người trong hình mới thực sự là cha mình, không một ai có thể thay đổi điều đó. Tình yêu của bé Thu dành cho ông Sáu là vô cùng to lớn, từ nhỏ cô đã yêu cha mình một cách sâu đậm, khi lớn lên thì tình yêu cũng sâu đậm hơn.
Bé Thu yêu cha như vậy, có lẽ tình yêu đó mang theo cả những tháng ngày mất mát thiếu vắng tình yêu cha mà lớn lên. Cho dù ông Sáu không ở bên cô nhưng cô không hề giận dỗi mà vẫn yêu ông Sáu. Một tình yêu thiêng liêng đã nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ khi ấy của cô. Tình yêu ấy đã làm cho cuộc sống của bé Thu trong những ngày thiếu đi ông Sáu không trở nên trống vắng. Trái tim của cô đã được sưởi ấm bởi tình yêu cha con giữa hai người họ. Mặc cho ở nơi đâu hay xa cách mới thì tình yêu cha con vẫn nảy nở và tạo thành một ngọn lửa sáng nhất, ấm áp nhất.
Có thể thấy rằng tình yêu bé Thu dành cho cha của mình là loại tình yêu vĩ đại nhất. Một tình yêu thiêng liêng luôn được ấp ủ từ nhỏ cho đến lúc ông Sáu mất đi. Tình yêu đó vẫn lớn lên theo thời gian mà không có dấu hiệu ngừng lại. Đó chỉ là một tình yêu đơn giản của cô dành cho cha mình nhưng lại sâu sắc đến lạ thường. Sự tồn tại của tình yêu này đã cùng cô đi qua mọi sự việc trong cuộc sống. Cùng cô lớn lên tựa như một người bạn thân vô hình cùng sống chung một thế giới riêng chỉ thuộc về cô và nó. Tất cả mọi thứ đều xuất phát từ tình yêu vĩ đại, tuyệt vời mà coi dành cho cha mình.
Tình yêu cha con sẽ mãi mãi tồn tại trên thế giới này. Tình yêu cũng vĩ đại như bao tình yêu khác. Một loại tình yêu soi sáng cuộc đời ta, mang lại cho ta một nguồn năng lượng. Tình yêu cha con với cùng to lớn nên hãy luôn trân trọng nó. Đừng để đến khi mất rồi thì hối tiếc tất cả những gì đã qua
Tác giả Nguyễn Quang Sáng đã thấu hiểu được tâm lí trẻ con nên đã cho ta thấy một bé Thu hồn nhiên, bướng bỉnh với tình yêu thương cha vô tận, làm lay động người đọc. Tình yêu thương cha của bé Thu luôn là một tình cảm sâu sắc đối với mọi người.
Cảm nhận về nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà – Mẫu 3
Nguyễn Quang Sáng viết truyện ngắn Chiếc lược ngà năm 1966, khi cuộc chiến chống Mĩ cứu nước ở miền Nam đang trong thời kì ác liệt nhất. Truyện được viết dựa trên một câu chuyện mà nhà văn đã nghe kể lại. Tác phẩm ra đời cỗ vũ mạnh mẽ cho phong trào đấu tranh chống giặc của quân và dân miền Nam.
Truyện ngắn Chiếc Lược Ngà của Nguyễn Quang Sáng đã gây ấn tượng vào lòng các bạn đọc vì tác giả xây dựng hình ảnh bé Thu đáng yêu với tình yêu ba tha thiết. Câu chuyện được xây dựng với nhiều tình tiết cảm động, lôi cuốn người đọc: Khi ông Sáu đi kháng chiến chống Pháp lúc đó bé Thu chưa đầy một tuổi. Khi anh có dịp về thăm nhà thì con gái anh đã lên 8 tuổi,
Nhưng bé Thu nhất quyết không chịu gọi ông Sáu là ba vì vết sẹo trên má của ông Sáu không giống với bức ảnh chụp chung với má bé Thu. Ông Sáu dùng mọi cách để gần gũi nhưng bé Thu cũng không chịu gọi là ba. Đến khi bé Thu nhận ra ba mình thì lúc đấy ông Sáu phải đi. Ông Sáu hứa sẽ mang về tặng chiếc lược ngà cho con. Chiếc lược ngà đã làm xong nhưng chưa kịp trao tận tay cho con mà anh đã hi sinh, trước khi nhắm mắt anh nhờ người bạn chuyển lại chiếc lược ngà cho con gái .
Nhân vật bé Thu chỉ mới 8 tuổi, là một cô bé giàu cá tính, bướng bỉnh. Bé Thu gây ấn tượng cho người đọc về một cô bé lì lợm khi trong mọi tình huống em nhất quyết cũng không gọi tiếng ba, hay khi hất cái trứng mà ông Sáu gắp cho bé Thu , cuối cùng ông Sáu tức giận đánh một cái thì bỏ về nhà ngoại. Tác giả Nguyễn Quang Sáng đã khéo léo xây dựng nhiều thử thách cá tính của bé Thu, dù là bị mẹ quơ đũa đánh hay bị dồn vào thế bí, bé Thu luôn bộc lộ là người kiên quyết, mạnh mẽ. Trong tâm trí bé Thu chỉ có hình ảnh một người ba là người chụp chung với má . Người ba ấy không giống ông Sáu bởi vì trên má ông Sáu có vết sẹo là dấu tích của chiến tranh để lại , bé Thu còn quá nhỏ để có thể biết sự khốc liệt của chiến tranh, bom đạn và sự khắc nghiệt của cuộc sống người chiến sĩ .
Nhưng bé Thu có bướng bỉnh, gan góc đi chăng nữa thì cũng chỉ là một cô bé 8 tuổi, tâm hồn còn rất trong sáng và hồn nhiên . Nhà văn tỏ ra rất am hiểu tâm lý trẻ thơ nên miêu tả rất chân thực và sinh động. Khi bị ba đánh, bé Thu đã gắp lại trứng vào mâm rồi lặng lẽ bước ra , có lẽ là do bé Thu đã cảm thấy mình sai. Rồi còn những hành động như: “Xuống xuồng , mở lòi tói, cố làm dây khua thật to rồi lấy dầm bơi qua sông”. Bé Thu bỏ đi lúc bữa cơm rồi cố gây tiếng động để gây sự chú ý để mọi người ra dỗ dành bé. Điều đó cho thấy bé Thu dù bướng bỉnh cứng cỏi nhưng một khía cạnh nào đó bé vẫn muốn được sự dỗ dành, vỗ về từ mọi người .
Ở đoạn cuối khi bé Thu nhận ra ba thì cho thấy bé Thu là một người rất giàu tình cảm và tình yêu ba sâu sắc. Tình cha con trong Thu giữ gìn bấy lâu nay trỗi dậy vào giây phút mà cha con phải tạm biệt nhau. Có ai ngờ là một cô bé không được ở cùng với cha khi một tuổi mà vẫn luôn thể hiện một tình yêu bền bỉ và mãnh liệt đối với cha mình, dù người cha ấy chưa từng săn sóc , chăm lo cho nó. Và khi ba nó chào trước khi đi, có cảm giác mọi tình cảm trong lòng bé Thu trào lên. Bé Thu không nén nỗi cảm xúc mà thét lên tiếng “Ba ..” vừa kêu vừa chạy xô đến ông Sáu và ôm ông Sáu khiến cho người đọc không thể nào không cảm động với tình cha con ấy. Tiếng ba ấy không chỉ khiến ông Sáu bật khóc mà còn mang một giá trị thiêng liêng trong nó.
Trong quá trình thể hiện diễn biến tâm lí nhân vật bé Thu có một chi tiết vô cùng quan trọng chính là vết sẹo. Chính cái sẹo là nguyên nhân gây ra những hiểu lầm trong tình cảm của cha con mà Thu dành cho ba. Vì cái sẹo là vết thương mà giặc Mĩ gây ra cho ba Thu. Sự chia cắt gia đình không chỉ riêng gia đình bé Thu mà còn hàng triệu gia đình người Việt cũng là do giặc Mĩ gây ra. Sau này, Thu đã trở thành một nữ giao liên dũng cảm, can đảm. Cô đã quyết tâm tiếp bước con đường cha cô đã đi để đánh đuổi kẻ thù của dân tộc.
Nhân vật bé Thu trong Chiếc Lược Ngà của Nguyễn Quang Sáng đã gây ấn tượng cho người đọc một cách sâu sắc với hình ảnh một bé gái bướng bỉnh nhưng giàu tình cảm . Tác phẩm còn là một áng văn ca ngợi tình phụ tử giản dị mà thiêng liêng.
Cảm nhận về nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà – Mẫu 4
Có những trang viết khiến người đọc rơi nước mắt khi chứng kiến những dằng xé, đau đớn và cả nước mắt. Có những nhân vật dù chỉ được vẽ qua nét bút của tác giả nhưng có sức ám ảnh. Nhân vật bé Thu trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà’ của Nguyễn quang sáng là một hình tượng luôn khiến người đọc xúc động mạnh khi lật giở từng trang viết của tác giả.
“Chiếc lược ngà” được sáng tác năm 1966, trong lúc cuộc kháng chiến đang diễn ra ác liệt, nhiều cam go. Ông Sáu lên đường ra chiến trận khi bé Thu chưa tròn một tuổi, nhưng khi ông trở về thăm con thì bé đã lớn và nhất quyết không nhận ba. Những day dứt, sự dằng xé, nước mắt, tủi hờn, mâu thuẫn nội tâm trong một đứa bé đã khiến cho cốt truyện được đẩy đến cao trào. Ba ngày ở cạnh ba nhưng bé Thu nhất quyết không chịu nhận, chỉ khi nghe bà ngoại kể về vết thẹo trên gương mặt ba thì lúc đó bé mới ôm chặt ông Sáu, không cho đi. Tình cảm cha con vỡ òa, cảm xúc trong lòng người đọc cứ thế tan chảy.
Mặc dù mới lên 8 tuổi nhưng bé Thu được xây dựng rất sắc nét, cá tính mạnh, bướng bỉnh. Trong tâm trí của bé Thu chỉ có một tấm hình duy nhất của ba chụp với má vào ngày cưới. Đó là những gì nó có để gìn giữ và đợi chờ ba trở về. Khi ông Sáu nhất quyết gọi “Thu! Ba đây con” thì bé vẫn nhất quyết không chịu nhận, cự tuyệt một cách thẳng thừng. Ông Sáu luôn dành tình cảm yêu thương chân thành và sâu sắc nhất cho bé Thu nhưng ông nhận lại là sự lạnh lùng, xa lánh. Chỉ bởi về vết thẹo dài trên mặt, chỉ vì chiến tranh, vì những tàn khốc mà nó đã gây ra. Cá tính mạnh của một cô bé 8 tuổi được Nguyễn Quang Sáng thể hiện rất sắc nét và táo bạo. Qua đó giúp người đọc hình dung được sự kiên định, vững chắc trong trái tim con người Nam Bộ.
Sự bướng bỉnh, lạnh lùng của bé Thu dành cho ông Sáu còn thể hiện qua cử chỉ và lời nói. Khi mẹ bảo mởi ba vô ăn cơm thì nó chỉ nói cộc lốc “vô ăn cơm”. Đặc biệt qua chi tiết chắt nước ở nồi cơm ra, bé Thu không chắt được nhưng nhất quyết không để cho ông Sáu chắt. Bướng bỉnh, lạnh lùng, hờ hửng đã khiến cho ông Sáu đau lòng. Cao trào của tính cách bé Thu thể hiện qua bữa cơm, khi ông Sáu gắp cho bé Thu cái trứng cá vào bát, bé hất đổ cả chén cơm. Ông Sáu đánh đòn, và tất cả mọi người cứ tưởng Thu sẽ giẫy nẩy lên và bỏ đi, nhưng không, “Nhưng không, nó ngồi im, đầu cúi gằm xuống. Nghĩ thế nào nó cầm đũa, gắp lại cái trứng cá để vào chén, rồi lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm”.
Suy nghĩ đã thôi thúc, đẩy thành hành động quyết liệt, khước từ mọi tình cảm và yêu thương của ba dành cho mình. Vì với bé Thu, đó không phải là ba. Có lẽ chính cá tính mạng, sự ngang bướng như thế này đã thôi thúc cô trở thành cô giao liên kiên cường trong cuộc kháng chiến về sau.
Nguyễn quang sáng không chỉ dừng lại ở việc miêu tả tâm lí nhân vật của một đứa trẻ lên 8 mà lấy tính cách đó làm tiền để cho tình yêu thương ba tha thiết và mãnh liệt như thế nào. Suốt 3 ngày ở cạnh ba nhưng bé Thu nhất quyết không nhận ba, chỉ đến khi nghe bà ngoại kể về vết thẹo trên mặt ba do chiến tranh gây nên thì lúc đó bé thu mới vỡ òa. Gương mặt nó buồn rầu như nghĩ ngợi gì, khi ông Sáu lên đường ra trận, không dám lại gần vì sợ nó lại giãy nảy như lần trước. Chỉ dám nói rằng “Ba đi nghe con” nặng nề, đau đớn, dằn vặt của một người ba nhưng không làm cách nào để thuyết phục con gái.
Lúc ấy một cảnh tượng xúc động diễn ra. Nó khóc thét lên “ba”, tiếng “ba” như vỡ òa, trào ra từ tận trong tim mà nó đã dồn nén bao nhiêu năm qua. Tiếng “ba” đó như khiến người đọc nghẹn đắng ở cổ họng, cho một tình yêu bền bỉ và sâu nặng. Tiếng kêu của bé Thu như “tiếng xé, xé tan không khí tĩnh lặng, xé ruột gan mọi người, nghe thật xót xa”. Bao nhiêu năm rồi, bé Thu vẫn luôn khát khao được gặp ba, được gọi tiếng ba. Tình cảm của bé Thu hoàn toàn đối lập với những ngày ông Sáu còn ở đây. Đó chính là niềm khao khát, tình yêu ba tha thiết.
Sự ngang tàng, bướng bỉnh và tình yêu ba tha thiết là đặc điểm hội tụ để bé Thu có thể xác định cho mình con đường đi trong tương lai, sẽ nối bước cha, đánh đuổi kẻ thù xâm lược
Như vậy việc xây dựng nhân vật bé Thu với những tính cách, tâm tư tình cảm đã khiến người đọc thêm xúc động về tình phụ nữ, tình cảm thiêng liêng nhất. Qua đó, tác giả còn muốn lên án, tố cáo chiến tranh đã khiến cho nhiều gia đình rơi vào cảnh nước mất nhà tan.
Cảm nhận về nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà – Mẫu 5
Chiếc lược ngà là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách sáng tác của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Trong đó nổi bật lên hình ảnh cô bé Thu với nhiều phẩm chất vô cùng đáng quý. Để phân tích cũng như cảm nhận về nhân vật bé Thu, trước tiên chúng ta cần tìm hiểu đôi nét về tác giả và tác phẩm như sau.
Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932, với bút danh là Nguyễn Sáng. Quê hương của nhà văn thuộc ở Chợ Mới, tỉnh An Giang. Ông là bộ đội thời đánh Pháp, sau năm 1954 tập kết ra miền Bắc mới bắt đầu viết văn. Trong những năm kháng chiến đánh Mĩ, ông sống và hoạt động tại chiến trường Nam Bộ. Cảnh vật, con người và hơi thở nhịp sống trong tác phẩm Nguyễn Quang Sáng đậm đặc màu sắc Nam Bộ.
Màu sắc bi tráng với bao sự tích anh hùng, những tình huống hấp dẫn đầy kịch tính và giàu chất thơ tạo nên cốt cách và vẻ đẹp trang văn Nguyễn Quang Sáng. Tác giả để lại nhiều tác phẩm đặc sắc bằng nhiều thể loại. Các tập truyện ngắn: “Con chim vàng”, “Người quê hương”, “Chiếc lược ngà”, “Bông cẩm thạch”, “Người con đi xa” … Tiểu thuyết có: “Đất lửa”, “Mùa gió chướng”, “Dòng sông thơ ấu”. Ngoài ra ông còn có một số kịch bản phim, lưu giữ trong lòng người “một thời để nhớ, một thời để yêu”.
Tác phẩm này ra đời vào tháng 9 năm 1966 tại chiến trường Nam Bộ, trong hoàn cảnh những ngày tháng sôi sục đánh Mĩ. Truyện kể về ông Sáu, một cán bộ “nằm vùng tại miền Đông” da diết thương nhớ vợ con, dùng ngà voi làm thành chiếc lược ngà xinh xắn, trước lúc từ thương đã nhờ bạn chiến đấu trao lại chiếc lược ngà cho đứa con gái bé bỏng, yêu thương.
Qua đó, tác giả Nguyễn Quang Sáng đã thể hiện tình cha con sâu nặng, tình đồng đội thiết tha trong cảnh ngộ éo le thời chiến tranh, đồng thời ca ngợi truyền thống cách mạng yêu nước của người nông dân Nam Bộ.
Những cảm nhận về nhân vật bé Thu hiện lên đầu tiên chính là hình ảnh một cô bé miền Nam khác thiếu thốn tình cha từ nhỏ do cuộc chiến tranh. Khi anh Sáu ra đi, em chưa đầy một tuổi, tám năm trời, cha con em chỉ biết nhau qua hai tấm ảnh. Lần về phép ba ngày của anh Sáu là cơ hội hiếm hoi để ba con Thu gặp gỡ nhau, bày tỏ tình phụ tử.
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã đặt bé Thu vào một tình huống đầy éo le: vì một sự hiểu lầm trẻ con, Thu không chịu nhận anh Sáu là ba, đến lúc nhận ra thì cũng là giây phút ba em lên đường tập kết. Và lần gặp mặt ấy, là lần gặp mặt đầu tiên, duy nhất, cuối cùng của cha con em. Khi cảm nhận về nhân vật bé Thu, có lẽ đây là tình huống oái oăm và trớ trêu của tác phẩm.
Tuy nhiên, từ tình huống truyện éo le ấy, người đọc vẫn nhận ra đặc điểm riêng, cá tính riêng của nhân vật bé Thu: một cô bé tám tuổi bướng bỉnh nhưng dễ thương và đặc biệt có tình yêu ba sâu sắc, mãnh liệt. Tình yêu ấy được thể hiện trong hai hoàn cảnh trái ngược nhau, trước và sau khi nhận ra ba.
Lúc chưa chịu nhận anh Sáu là ba, Thu là một cô bé trẻ con, bướng bỉnh và đáo để đến nỗi làm anh Sáu đau lòng vì thái độ khước từ tình thương ba dành cho em. Phút đầu tiên hai ba con gặp mặt, trái ngược với nỗi mong nhớ, sự sốt ruột và suy nghĩ của anh Sáu, bé Thu vụt chạy đi, nét mặt đầy sợ hãi kêu “má, má” để lại anh Sáu đứng một mình “nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai cánh tay buông xuống như bị gãy”.
Cảm nhận về nhân vật bé Thu còn thể hiện ở khoảng thời gian khi ông Sáu ở nhà. Trong ba ngày đó, anh không dám đi đâu vì muốn ở bên con, vỗ về, chăm sóc và bù đắp sự thiếu thốn trong 8 năm qua cho nó nhưng bé Thu lại tỏ ra cứng đầu, không chịu nhận anh, cũng không chịu gọi anh một tiếng “ba” dù chỉ một lần.
Nhà văn đã xây dựng một loạt các chi tiết để miêu tả tâm lí, thái độ rất trẻ con, cố chấp của bé Thu. Khi má bắt kêu ba vào ăn cơm, dọa đánh để cô bé gọi ba một tiếng, Thu vẫn chỉ nói trống không “vô ăn cơm! cơm chín rồi”, “con kêu rồi mà người ta không nghe”. Hai tiếng “người ta” mà Thu thốt lên làm anh Sáu đau lòng đến mức “không khóc được, chỉ khe khẽ lắc đầu cười”.
Thậm chí, ngay cả khi bị má đặt vào một hoàn cảnh khó khăn để buộc Thu gọi anh Sáu một tiếng ba là chắt nước nồi cơm to đang sôi, Thu cũng lại nói trống không “cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái”. Sự im lặng của anh Sáu và cả sự gợi ý của bác Ba đều không thể làm cô bé gọi tiếng “ba” đơn sơ, giản dị. Tiếng gọi mà mỗi đứa trẻ đều ghi nhớ và bập bẹ lần đầu tiên trong cuộc đời mình.
Khi cảm nhận về nhân vật bé Thu, người đọc thấy đỉnh điểm của sự kiên quyết chối từ tình yêu thương của anh Sáu trong bé Thu là chi tiết cái trứng cá trong bữa cơm gia đình. Bằng lòng thương con của người cha, anh Sáu gắp cái trứng cá ngon nhất vào chén cơm của Thu nhưng con bé bất thần hất nó ta khỏi chén cơm.
Nỗi đau khổ trong ba ngày nén chịu trào lên, anh Sáu đánh con, lúc đó Thu không khóc, lầm lì bỏ trứng cá lại vào chén cơm và bỏ sang nhà bà ngoại, lúc đi còn cố ý khua dây xuống cho thật to. Những chi tiết bình thường mà tinh tế này chứng tỏ nhà văn rất thấu hiểu tâm lí trẻ em. Trẻ con vốn rất thơ ngây nhưng cũng đầy cố chấp, nhất là khi chúng có sự hiểu lầm, chúng kiên quyết chối từ tình cảm của người khác mà không cần cân nhắc, nhất là với một cô bé cá tính như Thu.
Người đọc nhiều khi thấy giận em, thương cho anh Sáu. Nhưng thật ra em vẫn là cô bé dễ thương. Sự ương ngạnh của Thu không hoàn toàn đáng trách. Trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, nó còn quá nhỏ để có thể hiểu được những tình thế éo le, khắc nghiệt của đời sống và người lớn cũng không ai kịp chuẩn bị cho nó đón nhận những khả năng bất thường.
Chính thái độ ngang ngạnh, quyết liệt của bé Thu lại thể hiện sâu sắc tình cảm yêu thương dành cho ba. Đơn giản Thu không nhận ra cha là vì người tự nhận là cha kia không hề giống người cha mà em đã thấy trong bức ảnh. Ba em trong ảnh không có vết sẹo dài trên mặt như thế. Cô bé không tin, thậm chí là ngờ vực.
Không ai tháo gỡ được thắc mắc thầm kín trong lòng của Thu, nghĩa là bé Thu chỉ dành tình cảm cho người cha duy nhất trong bức ảnh. Sự bướng bỉnh của cô bé phải chăng còn là mầm sâu kín, sau này làm nên tính cách cứng cỏi ngoan cường của cô giao liên kiến định có lập trường. Phân tích và cảm nhận về nhân vật bé Thu, người đọc thấy đây là những diễn biến hoàn toàn hợp lý.
Phân tích và cảm nhận về nhân vật bé Thu còn thể hiện khi cô bé nhận cha của mình. Những nghi ngờ của Thu được giải tỏa khi nghe bà ngoại giải thích vì sao ba lại có vết thẹo dài trên má. Nghe những điều ấy, “nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Bởi thế, tình yêu ba trong Thu đã trỗi dậy mãnh liệt vào cái giây phút bất ngờ nhất, giây phút ông Sáu lên đường.
Cái tiếng “ba” mà ông Sáu đã chờ đợi từ lâu bất ngờ vang lên “Nhưng thật lạ lùng, đến lúc ấy, tình cha con như bỗng nổi dậy trong người nó, đến lúc không ai ngờ đến thì nó bỗng kêu thét lên: – Ba…a…a…ba! Tiếng kêu của nó như một tiếng xe, xé sự im lặng, xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa.
Cảm nhận về nhân vật bé Thu đến đây đã khiến mỗi người đọc không khỏi rơi lệ. Đó là tiếng “ba” nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay như vỡ tung từ đáy lòng nó”. Tiếng gọi thân thương ấy đứa trẻ nào cũng gọi đến thành quen nhưng với cha con Thu là nỗi khát khao của 8 năm trời xa cách thương nhớ. Đó là tiếng gọi của trái tim, của tình yêu trong lòng đứa bé 8 tuổi mong chờ giây phút gặp ba.
Nó vừa kêu, vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Nó vừa ôm chặt lấy cổ ba nó vừa nói trong tiếng khóc: – Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!”. Tình cảm con với ba được thể hiện một cách mãnh liệt, mạnh mẽ, cuống quýt, hối hả và có xen lẫn phần hối hận.
Đó là những cảm xúc đã dồn nén từ lâu bỗng vỡ òa ra: “Ba bế nó lên. Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc,hôn cổ, hôn vai, và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”. Bà con và người kể chuyện cũng như người đọc không thể kìm được nỗi xúc động như có ai đang nắm chặt tim mình bởi vì cái éo le của tình cha con ở đây. Thật xúc động biết bao, chỉ với những hành động này đã giúp ta cảm nhận về nhân vật bé Thu một cách đầy sâu sắc.
Lúc cha con nhận nhau lại cũng chính là lúc người cha phải ra đi. Sự níu kéo của đứa con càng khắc nhấn sự éo le của chiến tranh: “Con bé hét lên, hai tay nó siết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó và đôi vai nhỏ bé của nó run run”. Những nỗ lực của Thu không giữ được ba nó.
Ông Sáu vẫn phải ra đi dù giây phút cha con nhận nhau thật ngắn ngủi! Xót thương thay cho Thu bởi cô đâu hiểu rằng cuộc gặp gỡ đầu tiên này cũng là lần cuối cùng. Ba cô đã hi sinh trong một trận càn. Chứng kiến những biểu hiện tình cảm ấy trong cảnh ngộ cha con ông Sáu phải chia tay, có người không cầm được nước mắt và người kể chuyện thì cảm thấy như có bàn tay ai nắm lấy trái tim mình.
Có thể thấy, xuyên suốt đoạn trích, trong hai hoàn cảnh và hai cách ứng xử hoàn toàn khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một tấm lòng yêu cha sắt son của bé Thu – một em bé mới chỉ tám tuổi. Tuy nhiên, Thu trước sau vẫn chỉ là một cô bé ngây thơ, em đồng ý cho ba đi để ba mua một chiếc lược, món quà nhỏ mà bất cứ em bé gái nào cũng ao ước. Bắt đầu từ chi tiết này, chiếc lược ngà bước vào câu chuyện, trở thành một chứng nhân âm thầm cho tình cha con thiêng liêng, bất tử.
Đoạn trích kết thúc trong ánh mắt thiết tha của anh Sáu trước lúc hy sinh nhờ bác Ba trao cây lược ngà cho Thu. Với bé Thu, cây lược nhỏ mang dòng chữ đầy yêu thương “yêu nhớ tặng Thu con của ba” là kỉ vật chứa đựng tình thương, nỗi nhớ, hình bóng, tấm lòng người cha. Chiếc lược ngà đã động viên em vững vàng trong cuộc chiến đấu.
Khi bác Ba tình cờ gặp lại Thu và trao cây lược, thì cô bé bướng bỉnh cá tính ngày nào đã trở thành cô giao liên dũng cảm. Và nguồn sức mạnh tiếp thêm cho Thu là tình yêu ba, tình yêu đất nước. Đến đây, những cảm nhận về nhân vật bé Thu còn cho thấy đó chính là sức mạnh của tình yêu gia đình cùng tình yêu quê hương đất nước.
Nguyễn Quang Sáng đã rất thành công trong việc xây dựng nhân vật bé Thu – một nhân vật trẻ em có tính cách cứng cỏi , mạnh mẽ , dứt khoát “đến nỗi, nhìn thoáng qua, người ta có thể cho là ương ngạnh, bướng bỉnh, khó bảo” nhưng cũng hết sức hồn nhiên, đáng yêu, ngoan ngoãn và có tình yêu cha sâu sắc. Chỉ với những chi tiết trên, cảm nhận về nhân vật bé Thu đã hiện lên thật chân thực và rõ nét.
Có thể kể đến cách tạo tình huống bất ngờ, sự am hiểu tâm lí và tính cách trẻ em, cách chọn chi tiết nghệ thuật “đắt”, điển hình như chi tiết bé Thu không gọi ba, chi tiết bé Thu loay hoay chắt nước cơm, hất cái trứng cá ba gắp cho, chi tiết cây lược mà Thu xin ba trước lúc ba đi.
Nhờ những thành công nghệ thuật này mà nhân vật bé Thu để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về tình người – tình cha con trong những năm tháng chiến tranh xa cách, thương đau; để lại ấn tượng về một em bé Nam Bộ thời chiến với tính cách đáng yêu, đáng mến.
Cảm nhận về nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà – Mẫu 6
Chiếc lược ngà là truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Với cảm hứng viết về tình cha con và nỗi đau do chiến tranh, chuyện đã để lại cho người đọc những rung động thấm thía. Đặc biệt là diễn biến tâm lý và tình cảm tính cách của bé Thu trong lần gặp cha cuối cùng khi ông Sáu về thăm nhà.
Bằng nghệ thuật kể chuyện mang phong cách Nam Bộ với những tình huống bất ngờ. Tác giả đã để cho một nhân vật kể về nhân vật chính nhằm làm cho câu chuyện thêm khách quan và tin cậy. Đó là cách kể chuyện lồng trong chuyện, từ đó ta thấy rõ được những diễn biến tâm lý của nhân vật bé Thu.
Bé Thu là một cô bé có cá tính độc đáo mạnh mẽ. Bởi xa cha biền biệt và cũng chỉ vì một vết sẹo mà em vô tình không nhận ra cha, khi nhận ra cha thì mãi mãi em phải xa cha. Tình thương nỗi đau và sự uất hận đã giúp bé Thu sau này trở thành cô giao liên dũng cảm.
Cha đi chiến đấu biền biệt xa nhà. Đến khi Thu lên tám tuổi hai cha con mới được gặp lại nhau. Cô bé tóc ngang vai, mặc quần đen, áo hoa đỏ, hồn nhiên, xinh đẹp, mới nhìn ông Sáu đã nhận ra ngay con gái mình. Nhưng niềm vui sau bao năm xa cách là được gặp lại con thì thật trớ trêu đáp lại sự vồ vập ấy của người cha bé Thu tỏ ra ngờ vực lảng tránh. Bé Thu hốt hoảng, mặt tái đi, vụt chạy kêu thét lên, nói trống. Trong suốt ba ngày ở bên cha bé Thu đã không nhận ra cha của mình, bé ương ngạnh, cư xử vùng vằng. Bé nhất định không nhờ ông Sáu chắt nước nồi cơm, nó hất cái trứng cá mà ông gắp cho. Bị ông Sáu đánh nó bỏ về nhà ngoại khua loảng xoảng dưới xuồng. Đó là thái độ rất ương ngạnh của một đứa bé mới tám tuổi. Nhưng thái độ đó không hề chê trách được bởi tất cả vì chiến tranh. Chiến tranh đã gây ra những mất mát và đau thương. Mà một đứa trẻ như Thu còn quá bé bỏng để có thể hiểu được những tình thế khắc nghiệt, éo le mà ngay cả người lớn cũng không kịp chuẩn bị cho nó. Chỉ vì một vết sẹo trên mặt người cha cộng với bức ảnh mà nó biết về cha, nó đã không nhận cha. Vết thương do chiến tranh đã trở thành vết thương lòng sâu nặng của tình cảm cha con.
Ngày cuối cùng, trước phút giây ông Sáu lên đường, thì tình cảm thiêng liêng của bé Thu dành cho cha đã bùng cháy. Mọi thái độ và hành động của bé Thu bỗng đột ngột thay đổi. Khi nhìn thẳng, đối diện với người cha “đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao”. Đằng sau đôi mắt mênh mông ấy chắc đang xao động biết bao ý nghĩ, tình cảm. Lần đầu tiên bé cất tiếng gọi “Ba…ba” và tiếng kêu như tiếng xé “chạy nhanh như sóc ôm lấy cổ ba nó” cùng với cử chỉ hôn khắp mọi nơi: nó hôn tóc hôn cổ, hôn cả vết thẹo dài trên má của ba. Tâm lý ngờ vực chỉ vì vết sẹo đã được giải tỏa.Vì thế trong phút chia tay với cha tình yêu và nỗi mong nhớ suốt bao năm trời bị dồn nén nay trở nên mạnh mẽ và có cả sự hối hận. Cảnh tượng ấy diễn ra xúc động trong lòng mọi người.Và khi ông Sáu nói “Ba đi rồi ba về với con”, bé Thu đã hét lên là “không”, rồi hai tay siết chặt cổ, dang cả hai chân quặp lấy ba, đôi vai nhỏ run run. Chắc cô bé đã khóc, khóc vì sự ân hận của mình đã không nhận ra cha, khóc vì xót thương người cha vì chiến tranh mà phải xa gia đình.Chỉ vì bom đạn quân thù, mà ba đã mang sẹo trên mặt. Đó là điều đau khổ.Vậy mà, bé Thu đã không hiểu, lại còn xa lánh cha khiến cha đau khổ. Được bà ngoại giảng cho, bé đã hiểu. Nhưng có lẽ khi bé hiểu ra thì …muộn rồi. Cha bé đã phải xa gia đình trở về chiến trường, phải chịu bao gian khổ của mưa bom bão đạn. Vì vậy, mà bé Thu mới siết cổ cha, níu chặt lấy người cha, như muốn đền bù những hành động sai lầm của bé.
Từ giây phút bé Thu thức tỉnh, tình cảm tính cách của bé đã thay đổi sự ương ngạnh của cô bé tám tuổi đã không còn, mà thay vào đó là tình yêu cha, thương cha, tự hào về cha. Cuộc chia tay của bé Thu trong những giây phút cuối cùng này có ai biết được rằng đó là cuộc chia tay lần cuối là lúc cha xa em vĩnh viễn, không thực hiện lời hứa “ba đi rồi ba về với con”. Nhưng lòng yêu cha thành kính đã tạo nên một sức mạnh thôi thúc, rèn giũa để Thu trưởng thành sau này, khi cô trở thành một chiến sĩ giao liên gan dạ, dũng cảm.
Tóm lại, qua diễn biến tâm lý của bé Thu ta thấy được bé là người có tình cảm mạnh mẽ, sâu sắc, hồn nhiên, ngây thơ. Cá tính ấy của bé được tập trung thể hiện trong tình cảm cha con đằm thắm.Nhân vật bé Thu đã để lại trong ta những ấn tượng sâu đậm về tình cảm mà bé dành cho cha. Người đọc thêm yêu mến bé Thu với tình cảm mạnh mẽ ấy.
Cảm nhận về nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà – Mẫu 7
Chiếc lược ngà là một trong những truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nguyễn Quang Sáng được viết vào năm 1966 tại chiến trường miền đông Nam Bộ trong những tháng ngày sục sôi đánh Mĩ. Truyện tuy viết về đề tài chiến tranh nhưng lại ca ngợi tình cảm gia đình, tình phụ tử thiêng liêng sâu nặng mà bom đạn kẻ thủ không thể nào tàn phá nổi. Nhân vật bé Thu để lại nhiều ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Một em bé đáng yêu, cá tính mạnh mẽ, bướng bỉnh nhưng rất giàu tình thương đối với cha mình
Câu chuyện xoay quanh nhân vật ông Sáu. Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến khi bé Thu chưa tròn một tuổi. Bảy năm trời em sống với mẹ, thiếu vắng tình yêu thương của cha. Mãi đến khi Thu lên tám tuổi, cha mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Chỉ vì vết sẹo trên mặt cha do chiến tranh gây ra đã khiến bé Thu không chịu nhận ông là cha. Đến khi bé Thu hiểu ra thì cũng là lúc cha phải lên đường trở về cứ. Cuộc chia tay trên bến sông đẫm đầy nước mắt khiến ai cũng ngậm ngùi. Chiến tranh đã cướp cha của em mãi mãi. Chiếc lược ngà mà cha em đã nhờ bác ba gửi lại là kỉ vật cuối cùng, là mối liên kết duy nhất tình cha con của bé Thu
Dưới ngòi bút của nhà văn, bé Thu hiện lên là một đứa trẻ ương ngạnh, bướng bỉnh, có cá tình mạnh mẽ. Khi đã mang trong mình một niềm tin sâu sắc không gì lay chuyển được rằng người đàn ông đang đứng trước mặt mình đây với vết sẹo dài bên má phải không phải là cha ruột của mình. Bởi gương mặt của ông ta hoàn toàn khác hẳn với hình ảnh người cha chụp trong bức ảnh chung với má thì bé Thu nhất quyết không chịu gọi ông Sáu một tiếng ba.
Mặc dù ông Sáu đã tìm đủ mọi cách gần con, yêu thương chăm sóc cho con nhưng đáp lại bé Thu vẫn tỏ ra ngờ vực xa lánh. Sự ương ngạnh, cứng đầu đó của bé Thu được tác giả miêu tả qua hàng loạt các chi tiết rất cụ thể, sinh động. Mẹ bảo mời ba vô ăn cơm thì nó bảo lại: “Thì má cứ kêu đi”. Mẹ nó nổi giận quơ đũa dọa đánh, nó phải gọi nhưng lại nói trổng: “Vô ăn cơm”. Ông Sáu vẫn ngồi im chờ nghe nó gọi một tiếng ba nhưng nó từ trong bếp nói vọng ra: “Cơm chín rồi”, và quay sang bảo mẹ: “con kêu rồi mà người ta không nghe”.
Dù mọi người đã cố tình đặt nó trong tình huống gây cấn, bắt nó phải gọi ông Sáu là ba nó cũng không gọi. Nó đã tự mình làm lấy công việc nguy hiểm và quá sức, mà nhất định không chịu nhượng bộ, nhất định không chịu cất lên cái tiếng mà ba nó mong chờ. hành động liều lĩnh của nó khiến cho ông Sáu cũng phải lắc đầu, mỉm cười trước sự bướng bỉnh của con.
Xung đột lên đến đỉnh điểm khi bé Thu hất cái trứng cá mà ông Sáu đã gắp cho nó, làm cơm văng tung tóe. Ông Sáu không thể chịu đựng nổi nữa trước thái độ lạnh lùng của đứa con gái mà ông hết mực yêu thương, ông đã nổi giận và chẳng kịp suy nghĩ. Ông vung tay đánh vào mông nó. Bị ông Sáu đánh, Thu không khóc, gắp lại trứng cá rồi bỏ sang nhà ngoại, lúc đi còn cố ý khua dây lòi tói kêu rổn rảng.
Những chi tiết bình thường mà tinh tế này chứng tỏ nhà văn rất thấu hiểu tâm lí trẻ em. Trẻ con vốn rất thơ ngây nhưng cũng đầy cố chấp. Nhất là khi chúng có sự hiểu lầm, chúng kiên quyết chối từ tình cảm của người khác mà không cần cân nhắc. Điều đó là hiển nhiên đối với một cô bé cá tính, bướng bỉnh như Thu.
Người đọc nhiều khi thấy giận em, thương cho ông Sáu. Nhưng thật ra em vẫn là cô bé dễ thương. Sự thay đổi trên khuôn mặt của ông Sáu chưa có ai giải thích với nó. Tình yêu đến tôn thờ, trung thành tuyệt đối với người ba trong tấm ảnh chụp chung với má – người ba với gương mặt không có vết sẹo dài.
Trong tâm hồn em chỉ có duy nhất hình ảnh của người cha có trong bức ảnh chụp chung với má. Cho nên em hoàn toàn cự tuyệt, không chấp nhận tất cả những sự yêu thương của ông Sáu dành cho mình. Như vậy sự ương ngạnh, bướng bỉnh của bé Thu nhất quyết không chịu nhận ông Sáu là cha cho thấy tình thương của em dành cho cha thật mãnh liệt. Em chỉ gọi cho và đón nhận tình thương của cha khi em biết chắc đó là cha mình. Không ai có thể thay đổi tình cảm và hình ảnh của cha trong lòng em.
Cùng với cá tình ương ngượng, bướng bỉnh, mạnh mẽ, ta còn nhận ra bé Thu là một cô bé giàu tình cảm và rất thương cha mình. Sau khi được bà ngoại giải thích và hiểu ra vì sao cha em, ông Sáu có vết sẹo dài trên má phải, em lấy làm ân hận vì bấy lâu nay đã có những hành động ngỗ ngược với cha mình. Đêm đó em cứ “lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Nỗi buồn bã, day dứt ân hận, ngày mai ba đã ra đi làm sao có thể chuộc lại lỗi lầm mình đã gây ra.
Sáng hôm sau, khi ông Sáu chuẩn bị chào từ biệt mọi người lên đường, nó chỉ dám đứng từ xa nhìn ba nó. Mặt nó sầm lại buồn rầu. Rồi đến khi ông Sáu chào từ biệt nó lên đường, tình cảm cha con trỗi dậy mạnh mẽ, không thể kiềm chế cảm xúc của mình được nữa, nó bỗng kêu thét lên: “Ba…a…a…ba!”. Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” mà nó chờ đợi được thét lên trong mấy năm qua nay chợt vỡ tung ra từ đáy lòng nó. Tiếng “ba…a…a…ba” ấy chứa đựng tất cả tình yêu thương, lòng mong đợi, niềm hạnh phúc tột cùng và cả những xót xa, tủi hận mà nó cố kìm nén trong lòng bấy lâu. Nó muốn cho cha nó biết tình yêu mà nó dành cho cha nó là rất lớn, rất nhiều, nhiều đến vô cùng vô tân.
Tiếng kêu đó nghe thật chua xót ẩn chứa trong đó là biết bao tình yêu thương lẫn nỗi xót xa ân hận của nó dành cho cha mình. Rồi nhanh như con sóc nó chạy lại ôm chầm lấy ba nó hôn cùng khắp. Nó hôn lên tóc,…và hôn cả vết sẹo dài của ba nó. Giờ đây, nó không còn cảm giác ghê sợ nữa mà là nỗi vui mừng hạnh phúc, tự hào hãnh diện của đứa con khi được sà vào lòng cha, được cha ôm ấp, nâng niu. Giây phút thiêng liêng kì diệu ấy nó đã khao khát được chờ đợi bấy lâu nay mới được thoả nguyện. Nó khóc, nó siết chặt vòng tay như sợ ba nó đi mất.
Ba nó dỗ dành, nó dặn ba mua về cho nó chiếc lược. Không phải cần được ba tặng cho mình một món quà mà muốn dùng lời nói đó để cha ngày đêm nhớ rằng nơi quê nhà con đang tha thiết mong đợi, cha hãy dũng cảm chiến đấu, đánh đuổi thằng Tây để cha con sớm ngày gặp lại.
Nhận chiếc lược ngà, kỉ vật cuối cùng mà cha để lại hiểu được tình thương của cha dành cho mình. Bé Thu tự hào về cha, lớn lên em làm công tác giao liên để nối tiếp truyền thống đấu tranh hào hùng của cha. Hình bóng cha luôn sống mãi trong trái tim của người con gái nhỏ. Đó cũng chính là sự chiến thắng của tình người tình cảm gia đình trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh.
Qua những biểu hiện tâm lí và hành động của bé Thu, người đọc cảm nhận được tình cảm sâu sắc, mạnh mẽ nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi của bé Thu. Sự cứng đầu, tưởng như ương ngạnh ở Thu là biểu hiện của một cá tính mạnh mẽ (cơ sở để sau này trở thành một cô giao liên mưu trí, dũng cảm). Tuy nhiên, cách thể hiện tình cảm của em vẫn rất hồn nhiên. Tác giả đã tỏ ra rất am hiểu tâm lí trẻ thơ và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến,trân trọng những tình cảm trẻ thơ.
Truyện Chiếc lược ngà đã thể hiện một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng và cao đẹp của cha con ông Sáu trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh. Truyện còn gợi cho người đọc nghĩ đến và thấm thía những mất mát đau thương, éo le mà chiến tranh gây ra cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình. Nhân vật bé Thu là hiện thân sinh động cho hình ảnh những nạn nhân nhỏ bé, vô tội của chiến tranh, là lời tố cáo mạnh mẽ cuộc xâm lược phi nghĩa và tàn bạo của kẻ thù.
Cảm nhận về nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà – Mẫu 8
Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932, quê ông ở tỉnh An Giang. Ông đã tham gia vào hai cuộc kháng chiến chống Thực Dân, Đế Quốc của dân tộc. Vào những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước ông bắt đầu sáng tác văn học, ông viết nhiều thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch,.. Năm 1966 khi hoạt động ở chiến trường Nam Bộ đã sáng tác tập truyện “Chiếc lược ngà” và truyện ngắn “Chiếc lược ngà” được trích trong tập truyện cùng tên này. Câu chuyện đã làm người đọc xúc động về tình cảm cha con giữa bé Thu và ông Sáu, cũng như thấy được những đau khổ mà chiến tranh đã gây ra cho con người.
Hình ảnh cô bé Thu là nhân vật trọng tâm trong câu chuyện, được tác giả khắc họa là một cô bé ương bướng, lì lợm nhất quyết không gọi ông Sáu là ba, nhưng khi hiểu ra mọi chuyện thì cô bé lại khác hoàn toàn là một người tình cảm, cô bé thương ba và không muốn cho ba đi. Sau tám năm đi chiến đấu trở về, ông Sáu mang theo nỗi nhớ đứa con gái bé bỏng của mình, ông mong con gái gọi một tiếng “ba” nhưng khi ông về tới ngôi nhà sau bao năm xa cách, thì cô con gái của ông đã tỏ ra hoảng sợ và ngờ vực. Cô bé sợ hãi trước khuôn mặt của ông Sáu, trước vết sẹo dài bên má phải của ông, cô bé hoảng sợ, mắt chớp chớp như hỏi đây là ai, mặt tái đi và vụt chạy kêu thét lên: “Má, má”. Đây là một cuộc gặp gỡ ngoài dự kiến của em, đây không phải người đàn ông trong ảnh mà mẹ cho em xem, bà em là người khác chứ không phải người đàn ông có vết sẹo đáng sợ trên mặt kia.
Ba ngày ông Sáu được nghỉ phép Thu đã tỏ ra lạnh lùng và xa lánh ông Sáu, nhất quyết không chịu gọi ông Sáu một tiếng “ba”. Tình cảm của em đối với ông Sáu ngày càng đi xuống từ việc em nói trống không với ba: “Vô ăn cơm, cơm chín rồi” quá đáng hơn là em coi ông là người ngoài: “con gọi rồi mà người ta không nghe”,..những điều đó đã khiến cho tim ông Sáu đau thắt lại, ông không làm gì ông chỉ lặng im và tiếp đến chi tiết quan trọng cũng chính là việc bé Thu không chấp nhận sự chăm sóc của ông Sáu: khi ông gắp cái trứng bỏ vào bát cơm: “Nó liền lấy đũa xoi vào chén để rồi bất thần hất cái trứng cá ra, cơm văng tung tóe mâm”. Lúc này ông Sau không thể chịu đựng được nữa, ông đã ra tay đánh nó một cái. Nó không khóc, lặng gắp cái trứng vô bát rồi bỏ đi sang nhà ngoại.
Sau khi sang ngoại về nó đã suy nghĩ rất nhiều, sáng hôm ông Sáu đi, tình cảm cha con bỗng chỗi dậy. Trong khung cảnh tiễn ông Sáu quay lại đơn vị, mọi người chỉ biết lặng im, không nói gì chắc trong lòng mỗi người có những suy nghĩ riêng. Thì bỗng một tiếng thét làm phá vỡ không gian yên lặng đó: “Ba…a..a ba”, cái tiếng ba thiêng liêng, nó đã kìm nén bao lâu nay đến ngày hôm nay đã được bật ra thành tiếng, rồi chạy tới: ” Nó nhảy tót lên ôm cổ ba nó”. Sau đó nó hôn đầu hôn cổ, hôn tất cả và hôn cả cái sẹo dài và đáng sợ bên má phải của ông Sáu. Đến đoạn này, người đọc xúc động vui cho ông Sáu, con gái ông đã hiểu được lòng ông và gọi ông là cha.
Qua truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966 ta thấy được chiến tranh thật khốc liệt nó không chỉ tàn phá về vật chất mà còn tàn phá cả tinh thần, tàn phá tình cảm gia đình, khiến con không nhận cha. Không chỉ có vậy nó còn làm cho mẹ mất con, vợ mất chồng, con không cha,.. Ta thấy được tình cảm gia đình là điều thiêng liêng nhất cuộc đời này. Cô bé Thu sau khi nhận ra cha, đã không còn là cô bé bướng bỉnh và lì lợm nữa, cô thương ông và muốn ông sẽ mãi ở bên cạnh cô. Câu chuyện đã khiến cho người đọc cảm thấy xúc động và cho đến hiện nay nó vẫn còn giữ nguyên giá trị của nó.
Cảm nhận về nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà – Mẫu 9
Có một nhà văn đã nói rằng : “Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp bằng chính cuộc sống viết ra”. Cuộc chiến tranh chống Mĩ của dân tộc ta với biết bao câu chuyện đã trở thành huyền thoại được các nhà văn ghi lại như những câu chuyện cổ tích hiện đại. Trong số ấy phải kể đến “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng. Nhân vật bé Thu trong truyện đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc về tình thương cha mãnh liệt và có cá tính mạnh mẽ.
Ra đời năm 1966, những năm tháng gian khổ, đau thương nhất của đồng bào Nam bộ trong 30 năm chiến tranh, “Chiếc lược ngà” được kể lại qua sự chứng kiến của bác Ba, người đồng đội của anh Sáu. Người đã lặng lẽ dõi theo từ đầu đến cuối câu chuyện cảm động của cha con anh Sáu- bé Thu. Qua sự quan sát tinh tế, sâu sắc của bác Ba, chúng ta mới thấm thía hết nỗi đau của người dân Nam bộ trong chiến tranh và sức mạnh của tình cha con thiêng liêng, bất tử.
Bé Thu trong câu chuyện, cũng như bao cô bé miền Nam khác đều thiếu thốn tình cha từ nhỏ do cuộc chiến tranh. Khi anh Sáu ra đi, em chưa đầy một tuổi, tám năm trời, cha con em chỉ biết nhau qua hai tấm ảnh. Lần về phép ba ngày của anh Sáu là cơ hội hiếm hoi để ba con Thu gặp gỡ nhau, bày tỏ tình phụ tử. Nhưng nhà văn lại đặt bé Thu vào một tình huống đầy éo le: vì một sự hiểu lầm trẻ con, Thu không chịu nhận anh Sáu là ba, đến lúc nhận ra thì cũng là giây phút ba em lên đường tập kết. Và lần gặp mặt ấy, là lần gặp mặt đầu tiên, duy nhất, cuối cùng của cha con em.
Tuy nhiên, từ tình huống truyện éo le ấy, người đọc vẫn nhận ra đặc điểm riêng, cá tính riêng của nhân vật bé Thu: một cô bé tám tuổi bướng bỉnh nhưng dễ thương và đặc biệt có tình yêu ba sâu sắc, mãnh liệt. Tình yêu ấy được thể hiện trong hai hoàn cảnh trái ngược nhau, trước và sau khi nhận ra ba.
Lúc chưa chịu nhận anh Sáu là ba, Thu là một cô bé trẻ con, bướng bỉnh và đáo để đến nỗi làm anh Sáu đau lòng vì thái độ khước từ tình thương ba dành cho em. Phút đầu tiên hai ba con gặp mặt, trái ngược với nỗi mong nhớ, sự sốt ruột và suy nghĩ của anh Sáu, bé Thu vụt chạy đi, nét mặt đầy sợ hãi kêu “má, má” để lại anh Sáu đứng một mình “nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai cánh tay buông xuống như bị gãy”. Trong ba ngày anh Sáu ở nhà, anh không dám đi đâu vì muốn ở bên con, vỗ về, chăm sóc và bù đắp sự thiêu thốn trong 8 năm qua cho nó nhưng bé Thu lại tỏ ra cứng đầu, không chịu nhận anh, cũng không chịu gọi anh một tiếng “ba” dù chỉ một lần. Nhà văn đã xây dựng một loạt các chi tiết để miêu tả tâm lí, thái độ rất trẻ con, cố chấp của bé Thu. Khi má bắt kêu ba vô ăn cơm, doạ đánh để cô bé gọi ba một tiếng, Thu vẫn chỉ nói trống không “vô ăn cơm! cơm chín rồi”, “con kêu rồi mà người ta không nghe”. Hai tiếng “người ta” mà Thu thốt lên làm anh Sáu đau lòng đến mức “không khóc được, chỉ khe khẽ lắc đầu cười”. Thậm chí, ngay cả khi bị má đặt vào một hoàn cảnh khó khăn để buộc Thu gọi anh Sáu một tiếng ba là chắt nước nồi cơm to đang sôi, Thu cũng lại nói trống không “cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái”.
Sự im lặng của anh Sáu và cả sự gợi ý của bác Ba đều không thể làm cô bé gọi tiếng “ba” đơn sơ, giản dị. Tiếng gọi mà mỗi đứa trẻ đều ghi nhớ và bập bẹ lần đầu tiên trong cuộc đời mình. Đỉnh điểm của sự kiên quyết chối từ tình yêu thương của anh Sáu trong bé Thu là chi tiết cái trứng cá trong bữa cơm gia đình. Bằng lòng thương con của người cha, anh Sáu gắp cái trứng cá ngon nhất vào chén cơm của Thu nhưng con bé bất thần hất nó ta khỏi chén cơm. Nỗi đau khổ trong ba ngày nén chịu trào lên, anh Sáu đánh con, Thu không khóc, lầm lì bỏ trứng cá lại vào chén cơm và bỏ sang nhà bà ngoại, lúc đi còn cố ý khua dây xuòng cho thật to. Những chi tiết bình thường mà tinh tế này chứng tỏ nhà văn rất thấu hiểu tâm lí trẻ em. Trẻ con vốn rất thơ ngây nhưng cũng đầy cố chấp, nhất là khi chúng có sự hiểu lầm, chúng kiên quyết chối từ tình cảm của người khác mà không cần cân nhắc, nhất là với một cô bé cá tính, bướng bỉnh như Thu. Người đọc nhiều khi thấy giận em, thương cho anh Sáu. Nhưng thật ra em vẫn là cô bé dễ thương. Sự ương ngạnh của Thu không hoàn toàn đáng trách. Trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, nó còn quá nhỏ để có thể hiểu được những tình thế éo le, khắc nghiệt của đời sống và người lớn cũng không ai kịp chuẩn bị cho nó đón nhận những khả năng bất thường. Chính thái độ ngang ngạnh , quyết liệt của bé Thu lại thể hiện sâu sắc tình cảm yêu thương dành cho ba. Đơn giản Thu không nhận ra cha là vì người tự nhận là ba kia không hề giống người cha mà em đã thấy trong bức ảnh. Ba em trong ảnh không có vết sẹo dài trên mặt như thế. Cô bé không tin, thậm chí là ngờ vực. Không ai tháo gỡ được thắc mắc thầm kín trong lòng của Thu, nghĩa là bé Thu chỉ dành tình cảm cho người cha duy nhất trong bức ảnh. Sự bướng bỉnh của Thu phải chăng còn là mầm sâu kín, sau này làm nên tính cách cứng cỏi ngoan cường của cô giao liên kiến định có lập trường.
Sự nghi ngờ của Thu được giải tỏa khi nghe bà ngoại giải thích vì sao ba lại có vết thẹo dài trên má. Nghe những điều ấy, “nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Bởi thế, tình yêu ba trong Thu đã trỗi dậy mạnh liệt vào cái giây phút bất ngờ nhất, giây phút ông Sáu lên đường. Cái tiếng “ba” mà ông Sáu đã chờ đợi từ lâu bất ngờ vang lên “Nhưng thật lạ lùng, đến lúc ấy, tình cha con như bỗng nổi dậy trong người nó, đến lúc không ai ngờ đến thì nó bỗng kêu thét lên: – Ba…a…a…ba! Tiếng kêu của nó như tiếng xe, xé sự im lặng, xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay như vỡ tung từ đáy lòng nó”. Tiếng gọi thân thương ấy đứa trẻ nào cũng gọi đến thành quen nhưng với cha con Thu là nỗi khát khao của 8 năm trời xa cách thương nhớ. Đó là tiếng gọi của trái tim, của tình yêu trong lòng đứa bé 8 tuổi mong chờ giây phút gặp ba. Nó vừa kêu, vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Nó vừa ôm chặt lấy cổ ba nó vừa nói trong tiếng khóc:-Ba!Không cho ba đi nữa!Ba ở nhà với con!”.
Tình cảm con với ba được thể hiện một cách mãnh liệt, mạnh mẽ, cuống quýt, hối hả và có xen lẫn phần hối hận. Đó là những cảm xúc đã dồn nén từ lâu bỗng vỡ òa ra: “Ba bế nó lên. Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc,hôn cổ, hôn vai, và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”. Bà con và người kể chuyện cũng như người đọc không thể kìm được nỗi xúc động như có ai đang nắm chặt tim mình bởi vì cái éo le của tình cha con ở đây. Lúc cha con nhận nhau lại cũng chính là lúc người cha phải ra đi. Sự níu kéo của đứa con càng khắc nhấn sự éo le của chiến tranh: “Con bé hét lên, hai tay nó siết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó và đôi vai nhỏ bé của nó run run”. Những nỗ lực của Thu không giữ được ba nó. Ông Sáu vẫn phải ra đi dù giây phút cha con nhận nhau thật ngắn ngủi! Xót thương thay cho Thu bởi cô đâu hiểu rằng cuộc gặp gỡ đầu tiên này cũng là lần cuối cùng. Ba cô đã hi sinh trong một trận càn. Chứng kiến những biểu hiện tình cảm ấy trong cảnh ngộ cha con ông Sáu phải chia tay, có người không cầm được nước mắt và người kể chuyện thì cảm thấy như có bàn tay ai nắm lấy trái tim mình.
Xuyên suốt đoạn trích, trong hai hoàn cảnh và hai cách ứng xử hoàn toàn khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một tấm lòng yêu cha sắt son của bé Thu – một em bé mới chỉ tám tuổi. Tuy nhiên, Thu trước sau vẫn chỉ là một cô bé ngây thơ, em đồng ý cho ba đi để ba mua một chiếc lược, món quà nhỏ mà bất cứ em bé gái nào cũng ao ước. Bắt đầu từ chi tiết này, chiếc lược ngà bước vào câu chuyện, trở thành một chứng nhân âm thầm cho tình cha con thiêng liêng, bất tử.
Đoạn trích kết thúc trong ánh mắt thiết tha của anh Sáu trước lúc hy sinh nhờ bác Ba trao cây lược ngà cho Thu. Với bé Thu, cây lược nhỏ mang dòng chữ đầy yêu thương “yêu nhớ tặng Thu con của ba” là kỉ vật chứa đựng tình thương, nỗi nhớ, hình bóng, tấm lòng người cha. Chiếc lược ngà đã động viên em vững vàng trong cuộc chiến đấu. Khi bác Ba tình cờ gặp lại Thu và trao cây lược, thì cô bé bướng bỉnh cá tính ngày nào đã trở thành cô giao liên dũng cảm. Và nguồn sức mạnh tiếp thêm cho Thu là tình yêu ba, tình yêu đất nước.
Nguyễn Quang Sáng đã rất thành công trong việc xây dựng nhân vật bé Thu – một nhân vật trẻ em có tính cách cứng cỏi , mạnh mẽ , dứt khoát (đến nỗi, nhìn thoáng qua, người ta có thể cho là ương ngạnh, bướng bỉnh, khó bảo&hellip nhưng cũng hết sức hồn nhiên, đáng yêu, ngoan ngoãn và có tình yêu cha sâu sắc. Có thể kể đến cách tạo tình huống bất ngờ, sự am hiểu tâm lí và tính cách trẻ em, cách chọn chi tiết nghệ thuật “đắt” ( như chi tiết bé Thu không gọi ba, chi tiết bé Thu loay hoay chắt nước cơm, hất cái trứng cá ba gắp cho,chi tiết cây lược mà Thu xin ba trước lúc ba đi&hellip Nhờ những thành công nghệ thuật này mà nhân vật bé Thu để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về tình người – tình cha con trong những năm tháng chiến tranh xa cách, thương đau;để lại ấn tượng về một em bé Nam bộ thời chiến với tính cách đáng yêu, đáng mến.
Cảm nhận về nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà – Mẫu 10
Nhân vật bé Thu được nhà văn chú ý xây dựng với những nét vừa hồn nhiên vừa hết sức sâu sắc. Bé Thu là một đứa bé bướng bỉnh, gan lì, đáo để nhưng lại thương cha hết mực. Có thể nói, hình ảnh ông Sáu trong lòng bé Thu được bao bọc bởi sự tinh khiết, mãnh liệt, bất khả xâm phạm.
Khi gặp ông Sáu ở bến xuồng, nghe tiếng gọi tên mình, Thu “giật mình tròn mắt nhìn”. Nó ngơ ngác, lạ lùng, mặt nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: “má, má”.
Trong ba ngày nghỉ phép, Thu xa lánh ông Sáu trong lúc ông tìm cách vỗ về, gần gũi nhưng Thu nhất quyết không chịu gọi tiếng ba. Má dọa đánh, Thu buộc phải gọi ông Sáu vô ăn cơm, gọi chắt nước cơm nhưng lại nổi trổng. Dù bác Ba nói mẫu nhưng Thu vẫn không gọi. Bị dồn vào thế bí, nó nhăn nhó muốn khóc nhưng tự lấy rá chắt nước chứ không chịu gọi “ba”.
Xung đột đạt đến cao điểm khi bé Thu đã hất tung cái trứng cá ra mâm, cơm văng tung toé – bị đòn, không khóc, chạy sang nhà bà ngoại, cố ý khua cho dây xuồng kêu thật to.
Bé Thu thật là bướng bỉnh, cứng đầu và gan lì. Đến bác Ba cũng phải nghĩ “con bé đáo để thật”, còn ông Sáu thì không nén được: “mày cứng đầu quá vậy?”. Chính thái độ ương ngạnh, ngang bướng đó lại là biểu hiện tuyệt vời của tình cha con. Lý do nó không nhận ba thật đơn giản, trẻ con, bất ngờ mà hợp lý.
Trước khi ông Sáu trở về, ngày nào nó cũng mong nhớ. Nhiều lần chị Sáu lên thăm ông Sáu, nó muốn đi nhưng mẹ nó không cho vì đường xa nguy hiểm. Lúc biết được ông Sáu chính là cha nó, nó hối hận lắm, nằm thở dài và nghĩ đến ngày mai. Trước lúc ông Sáu lên đường, tình cha con của ông đã trở lại vào thời khắc ngắn ngủi nhất, đem lại cho người đọc nỗi xúc động nghẹn ngào nhất.
Trong cái ngày trước khi ông Sáu lên đường vào chiến khu, con bé cùng ngủ với bà ngoại. Trong đêm ấy, bà đã giảng giải cho nó nghe, phân tích cho nó hiểu. Con bé đã biết được rằng ông Sáu chính là cha mình. Nó cũng hiểu vết sẹo ghê sợ trên mặt ông là vết thương của ông trong chiến đấu. Sau khi hiểu được nguồn gốc lai lịch vết sẹo trên mặt cha, con bé lăn lộn suốt một đêm không ngủ được. Có lẽ nó hối hận lắm vì đã từng đối xử không tốt với ông. Lúc này, không chỉ yêu cha, nó còn rất thương ba nữa.
Người đọc đã chứng kiến một cuộc chia tay cảm động sáng hôm sau, trước khi cha nó lên đường Thu cũng có mặt trong buổi đưa tiễn cha nhưng lại mang tâm trạng hoàn toàn khác trước: “Nó không bướng bỉnh hay nhăn mày cau có nữa, mặt nó sầm lại buồn rầu. Khi đối diện với ông Sáu, “đôi mắt mênh mông của con bé bống xôn xao”. Người đọc cảm nhận được đằng sau đôi mắt mênh mông, xôn xao ấy đang xáo động biết bao tình cảm.
Tiếng gọi ba võ òa từ sâu thẳm trong tâm hồn bé bỏng của nó. Sự khao khát tình cha con lâu nay bị kìm nén bỗng bật lên. Bắt đầu là tiếng thét “Ba…a…a ba”. Tiếng gọi thân thương, tiếng gọi ông Sáu chờ đợi suốt hơn 7 năm ròng, cuối cùng ông cũng được nghe.
Thế rồi “nó vừa kêu vừa chạy xô tới…dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba Nó hôn khắp người ông Sáu, hôn cả vết sẹo dài trên má ông, cái vết sẹo trước kia nó ghê sợ và cảm thấy xấu xí vô cùng. Đến bây giờ, hiểu được vì sao cha có vết sẹo, Thu thương cha nó lắm. Hành động của em như muốn xoa dịu nỗi đau đã gây ra cho cha. Sau khi nghe ông Sáu nói: “Ba đi rồi ba về với con”, bé Thu thét lên: “Không!”, hai tay ôm chặt lấy cổ cha, 2 chân cấu chặt người nha. Em khóc vì thương cha, vì ân hận đã không phải với cha, vì không biết đến bao giờ mới được gặp lại cha. Lúc này tất cả hành động của Thu đều gấp gáp dồn dập, trái hẳn lúc đầu.
Trong tâm hồn cô bé, tình yêu với cha đã có sự thay đổi. Ngoài tình yêu còn có tình thương rồi cao hơn cả là niềm tự hào vô bờ bến, niềm kiêu hãnh vô cùng vì người cha chiến sĩ, người cha hy sinh tuổi thanh xuân, cống hiến cả cuộc đời cho cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Giờ đây người cha ấy lại tiếp tục đi theo con đường vinh quang mà cả dân tộc ta đang đi.
Qua nhân vật bé Thu, người đọc nhận thấy, tác giả quả rất am hiểu tâm lý trẻ em nên đã diễn tả sinh động tình cảm của bé Thu trong cuộc chia tay cha con đầy cảm động. Ông còn rất yêu thương trẻ thơ và quý trọng những cảm xúc hồn nhiên, phẩm chất anh hùng cao đẹp của tuổi trẻ.
Cảm nhận về nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà – Mẫu 11
Nguyễn Quang Sáng là nhà văn có rất nhiều những tác phẩm hay viết về những người dân Nam Bộ. Bởi ông vừa là một nhà văn nhưng cũng là một người chiến sĩ nên ông hiểu rõ những góc sâu trong tình cảm của những con người chiến sĩ luôn gần gũi bên cạnh mình. Những tác phẩm của ông mang lại rất nhiều dấu ấn trong lòng người đọc như Con chim vàng, Người quê hương, Chiếc lược ngà,… Trong số đó, tác phẩm mà em thích nhất chính là Chiếc lược ngà (1966). Câu chuyện đã làm cho chúng ta xúc động về tình cha con thắm thiết của bé Thu và anh Sáu trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt.
Bé Thu là một cô bé ương ngạnh và bướng bỉnh. Từ nhỏ, bé Thu đã không được gặp anh Sáu- cha của mình mà chỉ biết cha qua tấm ảnh cưới của cha mẹ. Bởi thế, trong lòng của cô bé, anh Sáu là một chiến sĩ cứu nước đẹp trai và thật yêu thương nó. Mãi cho tới khi bé Thu được bảy tuổi, anh mới có thời gian để về thăm nhà vài ngày. Những tưởng bé Thu sẽ nồng nhiệt đón chờ anh, thế nhưng, bé lại xa lánh người cha của mình và nhất quyết không chịu gọi một tiếng ” Ba” nào cả. Lần đầu tiên gặp anh, bé chỉ ” tròn mắt nhìn”,”ngơ ngác, lạ lùng” sau đó là ” vụt chạy và kêu thét lên”. Trong lòng anh Sáu luôn khao khát có thể có được một tiếng gọi của con gái, thế nhưng, bé Thu nhất quyết không chịu gọi anh một tiếng nào. Thậm chí, bé còn có những hành động chống đối lại anh. Khi mẹ bảo gọi cha ăn cơm, bé chỉ nói trống không những câu như ” Thì má cứ kêu đi”,”Vô ăn cơm”, “Cơm chín rồi”. Ngay cả lúc lâm vào tình huống khó xử cần nhờ giúp đỡ của anh Sáu mà bé Thu cũng nhất quyết không chịu gọi anh một tiếng ba mà chỉ hì hục một mình làm công việc. Những khi anh Sáu ân cần chăm sóc, bé cũng không chấp nhận. Bé hất miếng trứng cá anh Sáu gắp cho mình. Và trong những phút nóng giận, anh đã đánh vào mông bé ” Sao mày cứng đầu quá vậy, hả?”. Có lẽ tới đây, ai cũng nghĩ rằng, bé sẽ khóc to hay giẫy lên nhưng tình huống không hề như vậy. Bé Thu chỉ im lặng rồi sau đó bé đi sang bên nhà bà ngoại,” mét với ngoại và khóc ở bên đó”. Ở tình huống này, có rất nhiều người sẽ trách mắng bé Thu. Thế nhưng, tới đây, chúng ta mới hiểu được lí do tại sao bé Thu lại không chịu gọi anh Sáu một tiếng “Ba”.
Tất cả chỉ bởi vết sẹo ở trên mặt anh. Đây có lẽ là kết quả mà không ai có thể ngờ được. Thì ra trong bức ảnh của anh khi đưa cho bé Thu xem là khi anh chưa đi kháng chiến nên không hề có vết sẹo nào ở trên mặt. Trong khi giờ đây, khi anh đứng trước mặt của bé thì mặt của anh lại có một vết sẹo dài. Mỗi lần xúc động, vết sẹo ấy lại giật giật trông rất đáng sợ. Chính bởi lí do như vậy mà bé Thu nhất quyết không nhận người cha của mình bởi trong trí óc non nớt của bé, người cha không hề có vết sẹo đáng sợ ấy. Nghe được lời giải thích của bà, lúc này, bé mới có thể hiểu được những điều đó và cũng hiểu thêm về người cha của mình.
Tới lúc chia tay, anh Sáu chỉ khẽ nói với con:” Thôi! Ba đi nghe con!” Cứ nghĩ rằng cho tới lúc chia tay, anh cũng không thể nghe được tiếng gọi ba, thế nhưng một điều không ngờ đã xảy tới. Thu bỗng thét lên ” Ba!…Ba!” Tiếng kêu như gào xé cả bầu không gian. Bé vội chạy tới, ôm chầm lấy người cha của mình mà hôn lên khắp khuôn mặt của người cha, hôn cả lên vết seo mà bé vẫn thường sợ ấy. Bé khóc nấc lên, đòi giữ lấy người cha ở cạnh mình, không cho ba đi vì thời gian nhận ra nhau của họ quá ngắn ngủi. Không còn cách nào, bé đành xin ba làm cho bé một chiếc lược. Đây cũng chính là yêu cầu duy nhất của bé.
Đây cũng là lần cuối cùng của bé Thu được gặp người cha của mình. Qua đây, chúng ta thấy được tình cảm của cả hai cha con. Bằng giọng văn nhẹ nhàng, tác phẩm cũng kín đáo lên án chiến tranh, bởi chiến tranh đã tàn phá và để lại vết thương trên cơ thể anh Sáu và cũng làm cho cha con anh không thể gặp được nhau mới gây nên những tình huống như lúc này. Và hình ảnh của bé Thu mãi mãi là hình ảnh đẹp trong tâm trí của mỗi chúng ta.
Cảm nhận về nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà – Mẫu 12
Cảm nhận về nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà – Mẫu 13
Từ lâu, tác phẩm “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã được đánh giá cao trong giới văn học. Nó gây ấn tượng bởi cái cách nhà văn xây dựng cốt truyện, xây dựng hệ thống nhân vật. Tác phẩm là đỉnh điểm cao về tình phụ tử – một đề tài chưa được nhiều nhà văn khai thác. Xuyên suốt tác phẩm là câu chuyện thấm đẫm nước mắt giữa ông Sáu và bé Thu – con gái của ông Sáu. Câu chuyện trong tác phẩm sẽ không hay nếu thiếu đi nhân vật ông Sáu và càng không thể đến cao trào nếu thiếu đi nhân vật bé Thu. Nếu nói rằng cả tác phẩm là một cơ thể thì bé thu chính là linh hồn trong cơ thể ấy.
Bé Thu là một em bé phải chịu biết bao đau thương trong chiến tranh, gợi lên trong lòng người đọc niềm xót xa, thương cảm mãnh liệt. Và bé Thu cũng chính là hình ảnh đại diện cho những đứa trẻ sống trong hoàn cảnh chiến tranh tàn khốc ấy. Thu sinh ra chưa đầy một tuổi thì đã phải xa cha, lúc ấy em còn quá nhỏ để có thể ý thức được đây là cha mình, để có thể ghi nhớ hình ảnh của người cha trong tâm trí. Chính vì lẽ đó mà đến tận năm 8 tuổi, Thu cũng chỉ biết mặt ông Sáu qua tấm ảnh chụp chung với má. Tuổi thơ của Thu là một tuổi thơ sống thiếu tình cha. Dù ở nhà, mẹ em có thể đảm tốt mọi công việc của đàn ông nhưng vị trí người cha trong trái tim bé bỏng của Thu vẫn còn bỡ ngỡ. Em chưa thực sự có cái nhìn chân thành về người cha của mình. Sống thiếu cha nghĩa là Thu đã trải qua một tuổi trẻ rất bất hạnh rất thiếu thốn tình yêu thương từ người cha. Từ nhỏ cho đến khi 8 tuổi, trong Thu chỉ có một khát khao cháy bỏng, khát khao được gặp cha. Nhưng éo le thay, khi cha trở về, mang theo vết sẹo trên mặt từ chiến trường trở về khiến em không thể nhận ra đây là cha của mình. Người đàn ông mang vết sẹo này không giống với người cha mà suốt 8 năm qua Thu trông ngóng, đó cũng là điều khiến Thu không nhận ra cha của mình. Bất hạnh thay, chiến tranh đã khiến ông Sáu phải chịu những nỗi đau về thể xác nhưng nỗi đau ấy có là gì so với việc đứa con gái duy nhất không chịu nhận mình là cha. Giây phút mà Thu gọi tiếng “ba”, tất cả như ngưng đọng rồi vỡ òa trong tiếng nức nở của em. Ông trời như muốn trêu đùa với lòng người, khi Thu nhận ra cha thì đó cũng là lúc ông Sáu phải ra chiến trường làm nhiệm vụ để rồi tiếng gọi “ba” trong vội vã, nức nở của Thu cũng là tiếng gọi cuối cùng mà cha nó có thể nghe. Lần gặp mặt ấy cũng là lần cuối cùng hai cha con có thể đoàn tụ. Thật sự bé Thu thiệt thòi, thiếu thốn rất nhiều nhưng tình cảm yêu thương mà đáng lẽ ra một đứa trẻ phải được hưởng.
Mặc dù phải sống trong hoàn cảnh thiếu thốn tình cảm của người cha nhưng ở em lại sáng ngời bao vẻ đẹp đáng trân trọng, để lại trong lòng người đọc bao ấn tượng. Không thể nào quên Thu là một em bé đáo để, bướng bỉnh, có cá tính rất mạnh mẽ. Giây phút đầu tiên gặp ông Sáu, Thu sững sờ, hốt hoảng, không thể nhận ra cha mình. Nó sợ hãi thét lên “Má! Má!” rồi chạy vụt đi. Những ngày ông Sáu ở nhà dù ông có cố gắng gần con như thế nào thì Thu cũng tìm cách đẩy ông Sáu ra xa. Mặc dù ông Sáu đã đẩy Thu vào những tình huống khó khăn nhất nhưng em vẫn bướng bỉnh không chịu gọi ông Sáu là cha. Trong ba ngày nghỉ phép lúc nào Thu cũng tỏ thái độ chống đối lại ông Sáu mà đỉnh điểm đó chính là sự việc ông Sáu gắp một cái trứng cá to vàng để vào chén Bé Thu rồi em lấy đũa hất văng trứng cá ra khỏi bát tung tóe cả mâm cơm. Đến lúc này, cơn giận của ông Sáu bỗng bùng phát, không kịp suy nghĩ, ông đã vung tay đánh vào mông của bé Thu. Những tưởng Thu sẽ khóc, nhưng không, một lần nữa cái tính bướng bỉnh, cứng đầu của Thu lại trỗi dậy, nó bỏ bát cơm xuống, chạy ra bến, nhảy lên xuồng, nó còn cố ý khua dây tòi tói thật to để cho ông Sáu biết. Chiều hôm ấy, mẹ Thu sang dỗ thế nào em cũng không về. Qua đó ta lại thấy được tình yêu thương cha sâu sắc mãnh liệt của Thu khi chưa biết được nguyên nhân của vết thẹo thì em nhất quyết không nhận cha. Bởi trong tim Thu chỉ có duy nhất một người cha, đó là người đã chụp chung với mẹ trong tấm ảnh, đó chính là người cha mà nó mong chờ, tôn thờ, kính trọng. Điều này lại làm người đọc thêm xót xa, một cô bé 8 tuổi chưa được một lần gặp cha, chỉ biết cha qua tấm ảnh sơ sài để rồi khi gặp được cha, chính em lại không nhận ra đấy chính là người cha mình hằng mong nhớ. Khi được bà ngoại giải thích về vết sẹo trên mặt, tình cha con trong Thu bỗng bùng cháy mãnh liệt. Giây phút chia tay, Thu bỗng thốt lên “Ba…a…a”. Tiếng gọi ba thiêng liêng chan chứa cảm xúc, chỉ để gọi cho người cha của riêng mình mà Thu đã kìm nén suốt 8 năm trời nay lại có thể thốt ra, tiếng gọi xé tan sự im lặng của mọi người, xé tan sự đau khổ của ông Sáu, nghe thật xót xa, cùng với tiếng ba xé lòng ấy là những hành động vội vã có phần sợ hãi. Thu sợ ba phải đi chiến trường không thể quay trở lại. Thu muốn ông Sáu ở nhà với em. Những cái hôn thấm đậm tình thương mà bé Thu dành cho cha như phần nào xoa dịu những việc mà nó đã làm suốt 3 ngày qua đối với người cha đáng kính của nó. Tất cả những nhớ nhung, những tình cảm suốt 8 năm qua của cha con như được gói gọn trong giây phút này, trong chi tiết này. Tuy Thu bướng bỉnh, cứng đầu nhưng em cũng chỉ là một đứa trẻ ngây thơ, không nhận cha vì cha khác tấm ảnh chụp chung với mẹ vì ông Sáu có vết sẹo trên mặt. Quả thực, ở đâu đó trong Thu vẫn rất trẻ con, khi từ biệt ông Sáu Thu đã nhờ ông mua cho mình một cây lược, đó như là lời hứa ông Sáu sẽ trở về, nhưng ông Sáu đã chẳng thực hiện được lời hứa ấy.
Qua tác phẩm, ta còn nhớ đến Thu là một cô bé có lòng yêu nước, căm thù giặc sâu sắc. Vì yêu nước, sau này khi lớn lên, Thu cũng đã trở thành một cô giao liên dũng cảm, bước tiếp con đường mà ông Sáu đã chọn, con đường cứu nước… Việc trở thành cô giao liên cũng vì cha, nhiều tình yêu thương dành cho cha, muốn đánh đuổi quân giặc để trả thù cho cha.
Cảm nhận về nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà – Mẫu 14
Chiếc lược ngà là một trong những tác phẩm hay và nhiều xúc cảm về tình cha con trong thời chiến. Câu chuyện cha con của bé Thu và ông Sáu thực chất không hề lạ lẫm nhưng lại có màu sắc rất riêng. Nguyễn Quang Sáng đã có nhiều dụng công để phân tích nhân vật Thu, điển hình của những cô bé nhỏ nhắn nhưng có sức mạnh phi thường, tuy có chút ngang ngạnh nhưng lại nhiều chiều sâu cảm xúc, sâu sắc vô cùng.
Bé Thu là một nhân vật của văn chương nhưng bé Thu được miêu tả và hiện hữu một cách rất chân thực trong đời sống của Việt Nam ta trong những năm tháng ròng rã của chiến tranh khi đó. Thời kì đó, những em bé có hoàn cảnh như Thu là nhiều vô kể, tất cả đều do chiến tranh, khói lửa bom đạn mà ra. Chiếc lược ngà được kể lại qua sự chứng kiến của anh Ba, người đồng đội của ông Sáu. Người đã lặng lẽ dõi theo từ đầu đến cuối câu chuyện cảm động về tình cảm cha con giữa ông Sáu và bé Thu. Qua sự quan sát tinh tế, sâu sắc của anh Ba, người đọc có thể hiểu sâu sắc hơn tình cảm cha con thiêng liêng, bất tử của hai cha con ông Sáu.
Bé Thu trong câu chuyện, cũng như bao cô bé miền Nam khác đều thiếu thốn tình cha từ nhỏ do chiến tranh gian khổ và kéo dài. Khi ông Sáu ra đi, em chưa đầy một tuổi, tám năm trời, cha con em chỉ biết nhau qua hai tấm ảnh. Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến ròng rã tám năm mới về thăm nhà, thăm con. Bé Thu không nhận ra cha vì vết sẹo trên mặt làm cha không giống trong bức ảnh chụp chung với má. Tám năm đã là cả quãng đời của một đứa trẻ như Thu, tám năm trong đời không biết mặt cha, không rõ nổi hình dung, bởi vậy, việc nhận cha một cách đột ngột với Thu quá bất ngờ, không dễ dàng gì để chấp nhận. Em đối xử với ba như người xa lạ. Thu không chịu nhận ông Sáu là ba.
Bé Thu còn rất nhỏ tuổi nhưng rất có cá tính. Một cô bé tám tuổi bướng bỉnh nhưng dễ thương và đặc biệt có tình yêu ba sâu sắc, mãnh liệt. Tình yêu ấy được thể hiện trong hai hoàn cảnh trái ngược nhau, trước và sau khi nhận ra ba.
Lúc chưa chịu nhận anh Sáu là ba, phút đầu tiên hai ba con gặp mặt, trái ngược với nỗi mong nhớ, sự sốt ruột của ông Sáu, bé Thu vụt chạy đi, nét mặt đầy sợ hãi kêu “má, má” để lại anh Sáu đứng một mình “nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai cánh tay buông xuống như bị gãy”. Trong ba ngày anh Sáu ở nhà, anh không dám đi đâu vì muốn ở bên con, vỗ về, chăm sóc và bù đắp sự thiếu thốn trong tám năm qua cho nó nhưng bé Thu lại tỏ ra cứng đầu, không chịu nhận anh, cũng không chịu gọi anh một tiếng “ba” dù chỉ một lần.
Thu vẫn cố chấp với suy nghĩ riêng của bản thân. Khi má bắt kêu ba vô ăn cơm, dọa đánh để cô bé gọi ba một tiếng, Thu vẫn chỉ nói trống không “vô ăn cơm! cơm chín rồi”, “con kêu rồi mà người ta không nghe”. Hai tiếng “người ta” mà Thu thốt lên làm ông Sáu đau đớn tột cùng. Thậm chí, ngay cả khi bị má đặt vào một hoàn cảnh khó khăn để buộc Thu gọi ông Sáu một tiếng ba là chắt nước nồi cơm to đang sôi, Thu cũng lại nói trống không “cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái”. Chính thái độ ngang ngạnh , quyết liệt của bé Thu lại thể hiện sâu sắc tình cảm yêu thương dành cho ba. Đơn giản Thu không nhận ra cha là vì người tự nhận là ba kia không hề giống người cha mà em đã thấy trong bức ảnh. Ba em trong ảnh không có vết sẹo dài trên mặt như thế. Cô bé không tin, thậm chí là ngờ vực. Không ai tháo gỡ được thắc mắc thầm kín trong lòng của Thu, nghĩa là bé Thu chỉ dành tình cảm cho người cha duy nhất trong bức ảnh.
Sự nghi ngờ của Thu được giải tỏa khi nghe bà ngoại giải thích vì sao ba lại có vết thẹo dài trên má. Nghe những điều ấy, “nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Bởi thế, tình yêu ba trong Thu đã trỗi dậy mãnh liệt vào cái giây phút bất ngờ nhất, giây phút ông Sáu lên đường. Cái tiếng “ba” mà ông Sáu đã chờ đợi từ lâu bất ngờ vang lên Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng, xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay như vỡ tung từ đáy lòng nó. Đó là tiếng gọi của trái tim, của tình yêu trong lòng đứa bé tám tuổi mong chờ giây phút gặp ba không kém gì so với nỗi lòng của ông Sáu. Nó vừa kêu, vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. “Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!”. Tình cảm con với ba được thể hiện một cách mãnh liệt, mạnh mẽ, cuống quýt, hối hả và có xen lẫn phần hối hận. Đó là những cảm xúc đã dồn nén từ lâu bỗng vỡ òa ra, trong hoàn cảnh này là có chút đau đớn vì sắp phải xa ba.
Bé Thu là một cô bé rất đặc biệt, sự thể hiện tình cảm ra bên ngoài cũng rất đặc biệt, mới có 8,9 tuổi nhưng lại có chính kiến rất rõ ràng, rất chín chắn và chững chạc so với lứa tuổi. Tình cảm cha con của ông Sáu được bùng nổ mạnh mẽ từ những cảm xúc của Thu. Tình cha con cao đẹp, thiêng liêng và bất diệt.
Cảm nhận về nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà – Mẫu 15
“Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một truyện ngắn viết về tình phụ tử sâu nặng của cha con ông Sáu sau chiến tranh. Đây là một truyện ngắn giản dị nhưng chứa đầy sức bất ngờ như ta thường thấy ở văn của Nguyễn Quang Sáng. Đoạn trích trong sách giáo khoa đã cho thấy một khoảnh khắc nhỏ mà trong đó có sự cao cả thiêng liêng về tình phụ tử.
Truyện xoay quanh một kỉ vật đơn sơ mà vô giá đó là chiếc lược ngà. Nhưng suốt cả câu chuyện, suốt những quãng đời, suốt cả cuộc đời ấy chỉ có một tiếng kêu, một tiếng kêu bình dị và thiêng liêng bậc nhất cõi đời này: tiếng cha!. Câu chuyện “Chiếc lược ngà” đã kể lại thật cảm động về cuộc gặp gỡ và những tình cảm của cha con anh Sáu. Hình ảnh anh Sáu đã để lại trong lòng người đọc nỗi cảm thông, yêu mến và những ấn tượng sâu sắc.
Cũng như bao người khác anh Sáu đi theo tiếng gọi của quê hương đã lên đường chiến đấu, để lại người vợ và đứa con thân yêu. Sự xa cách càng làm dâng lên trong anh nỗi nhớ nhung tha thiết đứa con gái mà khi anh đi nó chưa đầy một tuổi. Nỗi nhớ ấy đã trở thành niềm khao khát, mơ ước cháy bỏng trong lòng anh. Chính vì vậy mỗi lần vợ lên thăm là một lần anh hỏi “Sao không cho con bé lên cùng?’’. Không gặp được con anh đành ngắm con qua ảnh vậy … Mặc dầu tấm ảnh đó đã rách nát, cũ kĩ lắm rồi, nhưng anh luôn giữ gìn nó vô cùng cẩn thận, coi nó như một báu vật. Còn đối với con gái Thu của anh thì sao? Từ nhỏ đến hồi tám tuổi nó chỉ được biết ba nó qua ảnh và qua lời kể của bà ngoại và mẹ. Dù được sống trong tình yêu thương của mọi người nhưng có lẽ Thu cũng cảm thấy thiếu hụt một tình thương, sự che chở của người cha. Chắc bé Thu từng giờ từng phút trông chờ ba nó lắm nhỉ? Và tám năm trời là những năm tháng dài đằng đẵng ấy cũng làm tăng lên trong lòng hai cha con anh sáu nỗi nhớ nhung, mong chờ, anh Sáu ao ước gặp con, còn bé Thu ao ước gặp bố.
Hình ảnh bé Thu là nhân vật trọng tâm của câu chuyện, được tác giả khắc họa hết sức tinh tế và nhạy bén, là một cô bé giàu cá tính, bướng bỉnh và gan góc. Bé Thu gây ấn tượng cho người đọc về một cô bé dường như lì lợm đến ghê gớm, khi mà trong mọi tình huống em cũng nhất quyết không gọi tiếng “Ba”, hay khi hất cái trứng mà ông Sáu gắp cho xuống, cuối cùng khi ông Sáu tức giận đánh một cái thì bỏ về nhà bà ngoại. Nguyễn Quang Sáng đã khéo léo xây dựng nhiều tình huống thử thách cá tính của bé Thu, nhưng điều khiến người đọc phải bất ngờ là sự nhất quán trong tính cách của bé, dù là bị mẹ quơ đũa dọa đánh, dù là bị dồn vào thế bí, dù là bị ông Sáu đánh, bé Thu luôn bộc lộ một con người kiên quyết, mạnh mẽ. Có người cho rằng tác giả đã xây dựng tính cách bé Thu hơi “thái quá”, song thiết nghĩ chính thái độ ngang ngạnh đó lại là biểu hiện vô cùng đẹp đẽ mà đứa con dành cho người cha yêu quý. Trong tâm trí bé Thu chỉ có duy nhất hình ảnh của một người cha “chụp chung trong bức ảnh với má”. Người cha ấy không giống ông Sáu, không phải bởi thời gian đã làm ông Sáu già đi mà do cái thẹo trên má. Vết thẹo, dấu tích của chiến tranh đã hằn sâu làm biến dạng khuôn mặt ông Sáu. Có lẽ trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, nó còn quá bé để có thể biết đến sự khốc liệt của bom lửa đạn, biết đến cái cay xè của mùi thuốc súng và sự khắc nghiệt của cuộc sống người chiến sỹ. Cái cảm giác đó không đơn thuần là sự bướng bỉnh của một cô bé đỏng đảnh, nhiễu sách mà là sự kiên định, thẳng thắn, có lập trường bền chặt, bộc lộ phần nào đó tính cách cứng cỏi ngoan cường của cô gian liên giải phóng sau này.
Dường như sự lạnh lùng và bướng bỉnh của bé Thu đã làm tổn thương những tình cảm đang trào dâng tha thiết nhất trong lòng ông. Vì quá yêu thương con nên anh Sáu không cầm nổi cảm xúc của mình. Trong bữa cơm, cưng con, anh gắp cho nó cái trứng cá nhưng bất ngờ nó hất tung cái trứng ra khỏi chén cơm. Giận quá, anh đã vung tay đánh và quát nó. Có lẽ việc đánh con bé là nằm ngoài những mong muốn của ông. Tất cả cũng chỉ là do anh quá yêu thương con. Có thể coi việc bé Thu hất cái trứng ra khỏi chén như một ngòi nổ làm bùng lên những tình cảm mà lâu nay anh dồn nén và chất chứa trong lòng.
Nhưng khi ta hiểu ra thì lại thấy rằng: Chính cái hành động đáng ghét ấy lại vô cùng đáng quý. Chính thái độ ngang ngạnh đó lại là biểu hiện tuyệt vời của tình cảm người con dành cho cha. Đơn giản vì lúc bấy giờ trong trí nhớ thơ ngây của Thu thì cha em đẹp lắm. Vì bom đạn quân thù, cha mang sẹo trên mặt. Đấy là điều đau khổ vậy mà nó không hiểu, lại xa lánh khiến cha đau khổ thêm. Cô bé không tin, thậm chí còn ngờ vực, điều đó chứng tỏ cô bé không dễ tin người. Cả bạn của cha, cả mẹ xác nhận là cha nhưng không ai tháo gỡ được thắc mắc thầm kín trong lòng mình thì cô bé vẫn chưa gọi. Nó không đơn thuần là sự bướng bỉnh của một cô bé đỏng đảnh, nhiễu sách mà đó là sự kiên định, quyết liệt của một người có lập trường. Đây chính là cái mầm sâu kín sau này làm nên tính cách cứng cỏi, ngoan cường của cô giao liên giải phóng. Đến khi được bà ngoại giảng giải về cái thẹo trên má ba, thì Thu mới vỡ lẽ đó thực là ba mình. Hình ảnh người cha thân yêu trên ảnh, người cha kính mến mà cô ghi sâu trong lòng, đến lúc ấy mới nhập vào người đang xưng ba có vết thẹo dài đây. Đã vỡ lẽ thì tình yêu ba nhân lên gấp bội nhưng … đã muộn rồi. Song đến giây phút cuối cùng, trước khi anh Sáu đi xa thì tình cảm thiêng liêng ấy bỗng cháy bùng lên. Lúc ra đi, chân anh ngập ngừng không muốn bước. Hẳn rằng anh Sáu muốn ôm con, hôn con nhưng sợ nó lại quẫy đạp và bỏ chạy nên anh chỉ đứng đấy nhìn nó với cặp mắt trìu mến xen lẫn buồn rầu. Trong ánh mắt của anh, chất chứa bao yêu thương mà anh muốn trao gửi tới con. “Thôi ba đi nghe con”. Phải chi bé Thu hiểu được ánh mắt của ba nó, hiểu được tâm trạng của ba nó lúc này nhỉ? Rồi bỗng nó chạy đến kêu thất thanh “Ba…a….a…ba!”. Tiếng kêu như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Tiếng kêu bật lên sau bao năm kìm nén, chờ đợi khắc khoải. Đó cũng là cái tiếng ba mà anh Sáu đã chờ đợi suốt tám năm trời xa con, đã chờ đợi suốt mấy ngày về bên con, ông đã tưởng chẳng thể còn được nghe thì bất ngờ nó thét lên. Nó vỡ ra còn lòng người đọc thì nghẹn lại.
Ai có thể ngờ được một người lính dạn dày nơi chiến trường, quen với cái chết cận kề lại là người vô cùng yếu mềm trước con gái mình. Những giọt nước mắt hiếm hoi của một cuộc đời từng trải nhiều gian khổ vất vả, song lại rơi khi lần đầu tiên ông cảm nhận được sự ấm áp của cha con thực sự! (“Không ghìm được xúc động và không muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt”). “Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba!”, đó là mong ước đơn sơ của con gái bé bỏng trong giây phút cha con từ biệt. Nhưng đối với người cha thì đó là mơ ước đầu tiên và duy nhất, cho nên nó cứ thôi thúc trong lòng ông. Tình cảm ông Sáu dành cho bé Thu trở nên thiêng liêng, cao cả và mãnh liệt hơn biết bao khi ông tự tay làm chiếc lược ngà cho con. “Khi ông Sáu tìm được khúc ngà sung sướng như trẻ con vớ được quà”, “Ông thận trọng, tỉ mỉ…”, “Ông gò lưng khắc từng nét…”. Một loạt hành động cảm động như khẳng định tình cha con sâu đậm. Tất cả tình yêu, nỗi nhớ con dồn cả vào công việc làm chiếc lược ấy. Ông nâng niu chiếc lược như nâng niu đứa con bé nhỏ của mình. Lòng yêu con đã biến một người chiến sỹ trở thành một nghệ nhân sáng tạo tài tình, dù chỉ sáng tạo một tác phẩm duy nhất trong đời. Cuối truyện có chi tiết ông Sáu đưa tay vào túi, móc lấy cây lược, đưa cho bác Ba và nhìn một hồi lâu. Ông Sáu hi sinh mà không kịp trăn trối điều gì, chỉ có một ánh mắt với niềm ước nguyện cháy bỏng mong người bạn của mình sẽ là người thực hiện nốt lời hứa duy nhất của mình với con. Tình cảm của ông Sáu khiến người ta phải thấy ấm lòng và cảm động sâu sắc.
Người mất, người còn nhưng kỷ vật duy nhất, gạch nối giữa cái mất mát và sự tồn tại, chiếc lược ngà vẫn còn ở đây. Chiếc lược ngà là kết tinh tình phụ tử mộc mạc, đơn sơ mà đằm thắm, kỳ diệu, là hiện hữu của tình cha con bất tử giữa ông Sáu và bé Thu; và là minh chứng chứng kiến lòng yêu thương vô bờ bến của ông Sáu với con. Có thể chiếc lược ấy chưa chải được mái tóc của bé Thu nhưng lại gỡ rối được tâm trạng của ông. Chiếc lược ngà xuất hiện đánh dấu một kết cấu vòng tròn cho câu chuyện, và cũng là bài ca đẹp tồn tại vĩnh cửu của tình cha con.
“Chiếc lược ngà” như một câu chuyện cổ tích hiện đại, thành công trong việc xây dựng hình tượng bé Thu và gửi gắm thông điệp đẹp về tình cha con. Nhân vật ông Ba – người kể chuyện hay chính là nhà văn Nguyễn Quang Sáng, phải là người từng trải, sống hết mình vì cách mạng kháng chiến của quê hương, gắn bó máu thịt với những con người giàu tình yêu, nhân hậu mà rất kiên cường, bất khuất, nhà văn mới có thể nhập hồn được vào các nhân vật, sáng tạo nhiều hình tượng với các chi tiết sinh động, bất ngờ, hơn nữa lại có giọng văn dung dị, cảm động!
Cảm nhận về nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà – Mẫu 16
“Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra Một lòng thờ mẹ kính cha Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.” Một trong những tình cảm thiêng liêng nhất của con người trong cuộc đời là tình phụ tử, tình mẫu tử. Trong vườn hoa văn học Việt Nam, tình mẫu tử luôn được đến với thái độ tôn trọng, tôn kính nhất. Tuy không nổi bật trong các tác phẩm như tình mẫu tử nhưng tình phụ tử cũng là một thứ tình cảm thiêng liêng, đáng quý, đáng trân trọng. Xuôi theo dòng chảy văn học của Việt Nam, ta bắt gặp tình cha con trong bài thơ “Nói với con” của tác phẩm Y Phương, tình cảm giữa người con trai đi làm xa và lão Hạc trong tác phẩm “Lão Hạc” của Nam Cao,… những tình cảm đó đều diễn ra theo chiều hướng tốt đẹp với tình cảm sâu sắc mà cha và con dành cho nhau. Hiếm có một tác phẩm nào như “Chiếc lược ngà” của tác giả Nguyễn Quang Sáng viết về tình cảm cha con giữa ông Sáu và bé Thu lại gây ấn tượng với người đọc như vậy. Một bé Thu không yêu quý cha từ đầu nhưng đến cuối tác phẩm lại khiến người đọc trào nước mắt cảm động khi nhận ba, khi bộc lộ tình yêu thương với ba trước lúc ba lên đường qua đoạn trích: “Đến lúc chia tay, mang ba lô lên vai,……bỗng thấy khó thở như có bàn tay ai nắm lấy trái tim tôi.”
Nguyễn Quang Sáng là nhà văn chuyên viết về cuộc sống và con người Nam Bộ với rất nhiều thể loại khác nhau như tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch,.. Tác phẩm “Chiếc lược ngà” được sáng tác vào năm 1966 tại chiến trường miền Nam trong thời kì kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra quyết liệt. Truyện thể hiện thật thấm thía, cảm động tình cảm cha con sâu nặng và cao đẹp trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Qua đó, chúng ta thấy được tài năng xây dựng tình huống truyện độc đáo, nghệ thuật khắc họa miêu tả tâm lí, tính cách nhân vật khéo léo của nhà văn Nguyễn Quang Sáng.
Câu chuyện kể về cuộc trùng phùng đầy nước mắt của hai cha con anh Sáu. Anh Sáu đi kháng chiến, sau một khoảng thời gian dài tám năm thì được nghỉ ba ngày phép để về thăm nhà. Bao nhớ thương, khao khát dồn nén mong nhớ gặp lại con, thèm được nghe con gọi một tiếng ba nhưng thật trớ trêu thay, bé Thu không nhận ra cha mình do vết sẹo trên gương mặt của anh Sáu. Đến khi hai cha con gặp gỡ và nhận nhau thì đó cũng là lúc anh Sáu phải trở về đơn vị. giữ lời hứa với bé Thu, anh làm cho con chiếc lược ngà nhỏ xinh để chải tóc với bao tình yêu thương gửi gắm trong đó nhưng cuộc đời thật trớ trêu, ông trời đã không cho anh gặp được con lần cuối. Trước khi nhắm mắt trút hơi thở cuối cùng, anh chỉ kịp trao lại cho bác Ba- người bạn thân của mình.
Truyện gây ấn tượng mạnh mẽ với bạn đọc qua nhân vật bé Thu. Thu là một cô bé đầy tình cảm, những hành động của cô bé lúc này khác hẳn với những ngày đầu khi anh Sáu trở về. Trái ngược nhưng lại nhất quán bởi nó quá yêu ba, quá nhớ ba, không cho phép ai thay đổi hình ảnh ba trong tâm trí nó. Khi hiểu được nguyên nhân của sự việc, nó muốn giữ ba ở lại, muốn thời gian ngắn ngủi còn lại kéo dài mãi mãi. Có lẽ chưa bao giờ cô bé mong thời gian ngừng trôi như bây giờ để níu kéo cuộc trò chuyện, cuộc gặp gỡ với ba. Nó ôm chầm lấy anh, “hôn lên mặt, lên tóc, lên cả vết sẹo trên má của anh”, dường như nó hiểu ra ba nó vẫn là ba của nó, vết sẹo ấy không những không làm ba mất đi mà còn làm ba trở nên đáng nể trong lòng nó. Có lẽ vì vậy mà sau này, khi lớn lên, Thu tiếp tục bước tiếp bước chân của ba trên hành trình bảo vệ Tổ quốc. Cô bé tám tuổi ngang bướng ngày nào giờ trở thành cô giao liên nhanh nhẹn, linh hoạt, lặng lẽ, âm thầm chiến đấu trả thù cho Tổ quốc, cho gia đình, cho tình cha con bất diệt.
Thu là cô bé có tình yêu thương cha sâu sắc, mãnh liệt. Tình yêu thương ấy được thể hiện qua sự thay đổi về thái độ của em trước giờ phút chia tay.. Trong đêm trước hôm ba lên đường, bà ngoại đã giảng cho nó nghe, phân tích cho nó hiểu. Con bé đã biết rằng chính ông Sáu là cha của mình. Nó hiểu rằng cái vết thẹo xấu xí trên mặt kia của ông là do chiến tranh gây nên. Ba nó cũng dũng cảm và hiên ngang như bao người khác ấy chứ. Sau khi hiểu được nguồn gốc vết thẹo, bé Thu lặn lội suốt một đêm không ngủ được: ‘Nghe bà kể nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn.” Có lẽ nó hối hận lắm vì đã từng đối xử không tốt với ba. Lúc này, bé Thu không chỉ yêu ba mà còn thương ba nữa. Người đọc được chứng kiến cuộc chia tay cảm động vào buổi sáng hôm sau trước khi ông Sáu lên đường. Bé Thu cũng có mặt ở buổi đưa tiễn nhưng lại mang một tâm trạng khác: ” Vẻ mặt của nó có cái gì hơi khác, nó không bướng bỉnh hay nhăn mày cau có nữa, vẻ mặt nó sầm lại buồn rầu, cái vẻ buồn trên gương mặt ngây thơ của con bé trông rất dễ thương.” Thu không ngơ ngác, không lạnh lùng nữa mà nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa. Phải chăng đó là ánh mắt của cô bé ngây thơ bối rối xen lẫn sự hối hận. Hối hận vì không yêu ba sớm hơn, hối hận vì đã trách lầm cha. Khi đối diện với ông Sáu, “đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao.” Độc giả cảm nhận được ẩn sâu trong đôi mắt mênh mông xôn xao ấy đang xáo động biết bao tình cảm. Khi ông Sáu chào mọi người, nói với bé Thu: “Thôi! Ba đi nghe con.” Tình thương cha bấy lâu đã đè nén trong lòng cô bé đã trỗi dậy mạnh mẽ, bé Thu cất tiếng gọi. Sự khao khát tình cha con bấy lâu nay bị kìm nén bỗng bật lên thành tiếng – tiếng thét gọi : “Ba…ba….a….ba”. Tác giả sử dụng từ “kêu thét” mà không phải là kêu gào, kêu lớn, đã phần nào diễn tả tâm trạng của bé Thu: lo sợ, buồn tủi. Bé kêu thét- sự đột ngột, sự dồn nén cảm xúc đã từ lâu giờ mới có cơ hội để thổ lộ. “Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa”, tiếng kêu đó xé cả bức tường mỏng manh ngăn dòng cảm xúc của người đọc , tất cả như vỡ òa. Người đọc thổn thức cùng bé Thu, thổn thức với tình cảm của bé. Tình cảm trong sáng, chân thành từ một đứa trẻ vô cùng yêu ba. Miêu tả những biến đổi tình cảm của bé Thu, tác giả đã một lần nữa tô đậm tình yêu thương ba của cô bé. Qua đó, ta thấy bé Thu bướng bỉnh, gan góc nhưng cũng giàu tình cảm. Những đau đớn thay, giây phút nhận ra ba lại là giây phút chia xa. Có lẽ cũng chính vì thế mà cô bé hiểu không còn nhiều thời gian bên ba nữa nên mới khóc nấc lên như vậy. Tình phụ tử trong giây phút này thật thiêng liêng biết bao nhiêu. Nó khiến người đọc phải suy ngẫm đến tình cảm của bản thân với ba mẹ: “Liệu mình đã làm đủ tốt chưa? Mình có phải hối hận vì điều gì không?”
Tiếng “ba” này em đã ấp ủ lâu biết bao nhiêu, nuôi dưỡng nó lớn lên từng ngày, tiếng “ba” như “vỡ tung ra từ đáy lòng”. Tình cảm dồn nén biết bao năm nay vỡ tung qua tiếng gọi “ba”, qua hành động của bé: “nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc”, em chạy thật nhanh vì sợ ba đi mất, người ba mà em đã chờ thật lâu chuẩn bị phải chia xa, chuẩn bị đi rồi. Nó hôn ba nó cùng khắp, hôn cả vết thẹo dài trên má, cái vết thẹo mà trước kia nó thấy ghê sợ và xấu xí vô cùng. Đến bây giờ hiểu được vì sao ba có vết thẹo ấy, Thu tương ba lắm. Hành động của bé Thu như muốn xoa dịu đi nỗi đau đã gây ra cho ba.Em leo lên người ba, vòng tay qua cổ ba, ôm thật chặt rồi như sợ không giữ được ba, em còn giữ chặt bằng cả hai chân. Một suy nghĩ trẻ thơ đánh mạnh vào trái tim người đọc, em dung tất cả sức mình để giữ chặt ba lại. Những giọt nước mắt lăn trên má bé Thu. Em khóc vì thương cha, vì ân hận, vì đã không phải với người ba của mình, vì không biết đến bao giờ mới được gặp lại ba. Tất cả những hành động của bé Thu lúc này đều gấp gáp dồn dập chẳng muốn mất đi một điều gì. Tác giả tinh tế chỉ ra điểm đặc biệt, điểm nổi bật của tình cảm mà bé Thu dành cho ba: “Tôi thấy làn tóc tơ sau ót nó như dựng đứng lên”. Tóc tơ rất nhỏ, rất mảnh, mềm và thường khó thấy nhưng tác giả lại thấy nó như dựng đứng lên- sự run rẩy, sợ hãi của một đứa trẻ đến tột độ, đến ngay cả sợi tóc tơ dường như cũng có cảm xúc. Bên cạnh tình yêu thương ba thì cô bé còn có niềm tự hào vô bờ, niềm kiêu hãnh về một người cha chiến sĩ, người cha ấy đã hi sinh cả tuổi thanh xuân, đã cống hiến cả cuộc đời mình cho độc lập dân tộc và giờ đây người cha ấy lại lên đường theo con đường vinh quang mà cả dân tộc đang đi. Tình yêu thương cha của bé Thu đã trao cho ông Sáu niềm tin,sức mạnh vượt qua mọi xã cách và gieo niềm hi vọng về ngày đoàn tụ.
Thu là một cô bé Nam Bộ ngây thơ hồn nhiên, trong sáng, cá tính mạnh mẽ. Vì đang ở độ tuổi hồn nhiên, trong sáng nên khi thấy anh Sáu không giống cha mình, em đã kiên quyết không nhận ba. “Ba không giống cái hình ba chụp với má”, “Cũng không phải già, mặt ba con không có cái thẹo trên mặt như vậy.”Nó không cho phép ai mạo nhận làm ba nó- một người ba đáng kính mà nó ngưỡng mộ xưa nay, phải là người ba trong bức hình chụp cùng với má. Bởi vậy, người đọc hoàn toàn có thể thông cảm trước sự ương bướng của bé Thu, và còn thương em thật nhiều. Một cô bé Nam Bộ có cá tính mạnh mẽ, là người yêu ghét rạch ròi, rõ ràng. Khi Thu chưa nhận cha, cô bé kiên quyết từ chối mọi sự quan tâm của ông Sáu. Khi được ông Sáu quan tâm trong bữa ăn giấc ngủ, thể hiện tình yêu thương nhưng Thu đã gạt phắt đi, thẳng tay chối bỏ những tình cảm của ba mình. Nhưng khi hiểu được ông Sáu là cha, Thu chủ động tìm về với cha, kiên trì chờ đợi, trực tiếp bộc lộ tình cảm mãnh liệt, sâu sắc.
Bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí và xây dựng tính cách nhân vật đặc sắc, từ chỗ Thu ngạc nhiên hoảng sợ đến lạnh lùng, cuối cùng là sự bùng nổ những yêu thương do bị dồn nén. Phải yêu trẻ con nhiều lắm, am hiểu tâm lí trẻ em nhiều lắm, yêu mến, trân trọng những tình cảm trẻ thơ thì tác giả Nguyễn Quang Sáng mới có thể làm nên tác phẩm thành công, ấn tượng với độc giả như vậy. Cùng với ngôn ngữ giản dị đậm chất Nam Bộ và tình huống bất ngờ hợp lí đã bộc lộ tình yêu thương tha thiết bé Thu dành cho ba của mình. Qua đó, đoạn trích cũng như tác phẩm đã thể hiện một cách chân thực và cảm động tình cảm yêu thương sâu nặng của hai cha con trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt.
Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” là một áng văn bất hủ ca ngợi tình phụ tử giản dị mà thiêng liêng, với những con người giàu tình cảm và đẹp đẽ,như nhân vật bé Thu và ông Sáu. Câu chuyện không chỉ ca ngợi tình cha con sâu nặng thắm thiết, mà còn gợi cho chúng ta những suy ngẫm và thấm thía được tình sự đau thương, mất mát của chiến tranh tàn khốc gây ra. Vì thế mà ta càng quý cuộc sống thanh bình của ngày hôm nay, quý tình cha cao thượng và vĩ đại. Mỗi người đều lưu giữ trong trái tim mình hình ảnh một người cha, hãy biết trân trọng tình yêu và sự hy sinh vô điều kiện mà cha đã dành cho ta. Vòng đời mới ngắn ngủi làm sao, đừng mãi sống ích kỷ, chỉ biết nhận tình cảm thương yêu từ cha mẹ mà chẳng bao giờ đền đáp lại. Nếu bạn còn cha, và một người cha đúng nghĩa thì hãy cảm ơn thượng đế vì bạn đã được sinh ra trong cuộc sống này.
Cảm nhận về nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà – Mẫu 17
Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng là một truyện ngắn viết về tình phụ tử sâu nặng của cha con ông Sáu thời kì chiến tranh. Đây là một truyện ngắn giản dị nhưng chứa đầy sự bất ngờ như ta thường thấy ở văn của Nguyễn Quang Sáng. Đoạn trích trong sách giáo khoa đã cho thấy một khoanh khắc nhỏ mà trong đó tình phụ tử nổi lên như một tình cảm thiêng thiêng, cao cả.
Truyện ngắn này được viết năm 1966, khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Nội dung truyện là tình cha con của ông Sáu trong bối cảnh ngặt nghèo, éo le của chiến tranh. Tuy đây là một đề tài muôn thuở trong văn chương nhưng chính vì thế, giá trị nhân văn của truyện càng trở nên sâu sắc.
Truyện xoay quanh đề tài tình cảm cha con ông Sáu. Tác giả Nguyễn Quang Sáng đã chú ý đặc biệt đến nhân vật bé Thu, một nhân vật có nội tâm đầy mâu thuẫn. Thu là một cô bé phải sống xa cha từ nhỏ. Tuy vậy, trong tâm tưởng của Thu, hình ảnh người cha phải xa cách từ lâu luôn tồn tại qua những tấm ảnh. Mặc dù rất yêu cha nhưng khi gặp lại cha, Thu lại có những tâm trạng hết sức mâu thuẫn thể hiện qua hành động. Khi nghe ông Sáu gọi con, Thu đã không hề mừng rỡ như ông tưởng, nó giật mình, tròn mắt nhìn, ngơ ngác, lạ lùng, chớp mắt như muốn nhìn hỏi, thậm chí mặt nó bỗng tái mét rồi vụt chạy và kêu lên. Đó đều là những cử chỉ mà không ai ngờ tới, những cử chỉ thể hiện sự sợ hãi khác thường giữa cha và con. Không chỉ có thế, hành động của Thu còn chứa đầy sự lạnh nhạt và lảng tránh. Kịch tính câu chuyện được đẩy lên cao khi bé Thu nấu cơm. Nó góp phần tạo nên độ căng thẳng của mạch kể. Cái nồi cơm quá to, con bé cần có sự giúp đỡ của người lớn nhưng nó đã- nhất quyết không chịu gọi ba, không chịu nhờ vả. Đỉnh điểm nữa là khi bé Thu cả gan hất cái trứng cá mà anh Sáu đã gấp cho. Đây là một hành động rất tự nhiên và hợp lí của bé Thu, thể hiện cá tính mạnh mẽ và quyết liệt của em. Thương con là thế nhưng ông Sáu vẫn không giữ nổi bình tĩnh. Đó là hành động cho thấy một kịch tính đã được đẩy lên đến đỉnh điểm, lòng thương con của ông Sáu đã bộc phát thành một hành động rất đỗi bình thường của cha mẹ. Bị đánh nhưng bé Thu không khóc như mọi đứa trẻ khác, nó chỉ đứng dậy và lặng lẽ sang nhà ngoại. Có lẽ không ai biết được tại sao bé Thu lại cứng đầu đến thế nếu không có hành động em bỏ qua nhà bà ngoại.
Vết thẹo trên mặt ông Sáu là nguyên nhân của tất cả vấn đề. Đối với người lớn thì vết thẹo kia không có gì khác lạ, nhưng đối với một tâm hồn non nớt như bé Thu, thì vết thẹo là một sự khác lạ. Em chưa đủ lớn để hiểu được sự ác nghiệt của chiến tranh. Người cha trong những tấm ảnh và người cha ở ngoài khác nhau. Và bản tính trẻ thơ trong em chỉ đinh ninh người cha trong ảnh. Chính chi tiết này đã làm cho câu chuyện rất thật. Chi tiết bé Thu nằm im và lăn lộn nghe ngoại kể về vết thẹo của ba, thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn đã cho thấy sự chuyển biến trong suy nghĩ non nớt của em. Câu chuyện đã giúp em giải tỏa nỗi lòng, đồng thời cũng cho thấy sự ân hận của em vì trong những ngày qua em không nhận ông Sáu là ba. Cao trào của câu chuyện được đẩy lên một lần nữa khi vào thời điểm mà không ai ngờ tới – ông Sáu sắp trở về đơn vị – bé Thu lại nhận cha. Tiếng thét của bé Thu như giải tỏa bao nỗi lòng, bao sự thương nhớ của em. Cùng với những biểu hiện vội vã, hối hả, tác giả đã để Thu bộc lộ hết những tình cảm, nỗi nhớ của mình. Đây là một chi tiết biết nói. Không có chi tiết này câu chuyện sẽ mất đi một phần giá trị và trở nên nhạt nhẽo. Niềm vui sướng khi tìm thấy tình cha con tưởng như không bao giờ tìm thấy nữa nỗi sung sướng vượt ra ngoài sức tưởng tượng của ông Sáu. Những giọt nước mắt của ông đã vượt qua mọi khoảng cách khiến người đọc không thể cầm lòng. Mỗi lần đọc đến đoạn này, lòng tôi như run lên vì những tiếng nói của bé Thu, của ông Sáu. Đó là niềm vui, niềm hạnh phúc, nó dâng trào. Cõi lòng tôi như mở ra để đón nhận sự hạnh phúc của cha con ông Sáu, sự bất diệt của tình cha con. Tiếng thét của bé Thu là lời minh chứng cho sự bất tử của tình phụ tử.
Qua nhân vật ông Ba, Nguyễn Quang Sáng đã dành cho bé Thu bao tình cảm quý mến và trân trọng, ông cảm thông với cái ương bướng, cứng đầu của một đứa trẻ. Hình ảnh bé Thu hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài trên má của ba, cùng với cử chỉ dang cả hai chân cấu chặt lấy ba nó mãi mãi là hình ảnh biểu trưng cho tình cha con thời máu lửa. Giây phút từ biệt ấy đã trở thành vĩnh biệt. Nỗi buồn từ câu chuyện làm ta thấm thìa thêm sự ác nghiệt của chiến tranh.
Trong truyện, tác giả không chỉ chú ý đến tình cảm của nhân vật bé Thu mà còn làm nổi bật tình thương con của ông Sáu. Ngày ông đi bộ đội, Thu còn rất bé, nhưng tình cha con trong ông luôn tồn tại mãnh liệt. Lần nào vợ đến thăm ông cũng hỏi thăm con. Đây chính là tình yêu thương của người cha làm cách mạng xa nhà dành cho con. Khi về thăm nhà, những tưởng được gặp con, được nghe con gọi ba với sự thương yêu nhất. Nhưng bom đạn đã làm cho tình cha con suýt trở thành một nỗi đau trong lòng ông Sáu. Khi không đón nhận được tình cảm từ đứa con, ông Sáu trở nên suy sụp, đau đớn và đáng thương. Tuy nhiên, trước sự ứng xử lạnh nhạt của con, ông Sáu vẫn luôn dành cho con những tình cảm yêu thương nhất, trong ánh mắt của ông vẫn luôn tràn đầy tình yêu thương. Ông đã làm mọi cách để xóa tan bức tường đang ngăn cách giữa hai cha con. Hành động đánh con của Ông Sáu như để giải tỏa nỗi bức xúc tinh thần, đó cũng là một hành động cho thấy tình thương con của ông Sáu.
Khao khát gặp lại vợ con luôn ngự trị trong lòng ông Sáu, nhưng khi gặp mặt con lại trở thành nỗi đau trong lòng ông. Đó chính là cái bi kịch thời chiến tranh. Bé Thu còn quá bé để có thể nhận ra những gì đã xảy ra trong cuộc đời của ông Sáu cũng như của bao nhiêu con người phải ngày đêm ở chiến trường xa xôi. Giây phút hạnh phúc nhất trong đời ông Sáu có lẽ là tiếng gọi ba của bé Thu lúc ông sắp trở lại đơn vị. Tiếng gọi như xé lòng, như ăn sâu vào tâm khảm của bất cứ ai dù không chứng kiến cảnh tượng ấy. Đối với bé Thu thì đó là tiếng gọi của tất cả tình cha con dành cho ông Sáu, còn đối với ông Sáu thì tiếng gọi đó là tiếng gọi của thứ tình cảm thiêng liêng và vĩ đại nhất.
Tất cả tình thương con của ông Sáu thể hiện qua các hành động chỉ diễn ra trong chốc lát: ông ôm con, rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc con. Còn nữa, ông còn dành tình cảm của mình vào chiếc lược ngà mà ông hứa tặng con trước lúc lên đường. Đến đây thì chủ đề câu chuyện mới được hé lộ. Chiếc lược ngà là tất cả tình cảm của ông dành cho con, chính vì thế mà khi có được khúc ngà, ông Sáu hớn hở như bắt được quà. Tác giả đã dùng những chi tiết rất đắt để thể hiện tình cảm của ông Sáu dành cho con, từ việc ông Sáu có được khúc ngà, các công đoạn làm lược, mài lược, đến khi trao lại cây lược cho người bạn trước lúc hi sinh. Cái nhìn của ông Sáu trước lúc hi sinh như ẩn chứa bao nhiêu điều muốn nói.
Hình ảnh ông Sáu trong truyện sẽ mãi đọng lại trong lòng người đọc. Chiếc lược ngà với dòng chữ khắc trên đó sẽ mãi là kỉ vật, là nhân chứng về nỗi đau, về bi kịch thời chiến tranh. Nó buộc người đọc phải suy nghĩ về những đau thương, mất mát mà chiến tranh đã gây ra. Bên cạnh đó, hình ảnh ông Sáu, bé Thu mãi mãi là biểu tượng của tình cha con trong kháng chiến.
Truyện ngắn Chiếc lược ngà đã rất thành công trong việc kết hợp kể chuyện với miêu tả nội tâm nhân vật, xây dựng nội tâm mâu thuẫn nhưng nhất quán về Tính cách. Truyện được kể ở ngôi thứ nhất dưới góc nhìn của ông Ba. Điều đó làm cho câu chuyện trở nên khách quan và nhiều tính chân thực, và người đọc cũng dễ chia sẻ, đồng cảm đối với từng nhân vật. Truyện có sự sắp xếp rất chặt chẽ nhiều tình huống bất ngờ làm cho người đọc cảm thấy hứng thú và lôi cuốn khi đọc.
Truyện ngắn Chiếc lược ngà làm sống lại quãng thời gian đánh giặc giữ nước nhiều mất mát nhưng cũng rất hào hùng của dân tộc. Lớp trẻ chúng ta hôm nay được sống trong hòa bình không thể không nhớ đến sự hi sinh của những người đi trước như ông Sáu.
Cảm nhận về nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà – Mẫu 18
Ta biết đến Nguyễn Quang Sáng thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành trong cách mạng, một người nghệ sĩ đa tài sáng tác nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim,… chủ yếu về con người Nam Bộ. Một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của ông là “Chiếc lược ngà”, viết về tình cha con sâu nặng. Hình ảnh một bé Thu gan lì bướng bỉnh nhưng có tình yêu thương cha sâu sắc mãnh liệt còn để lại ấn tượng mãi trong lòng người đọc.
Trích đoạn truyện ngắn “Chiếc lược ngà” xoay quanh cuộc gặp gỡ giữa hai cha con: ông Sáu và bé Thu sau 8 năm xa cách. Ngày ông Sáu lên đường đi kháng chiến, Thu chưa đầy một tuổi. Tám năm sau ông mới có dịp về thăm nhà nhưng thật trớ trêu Thu lại không chịu nhận cha. Tình huống truyện đặc sắc mà cảm động đã bộc lộ tình yêu thương cha sâu nặng của một em nhỏ trong thời kỳ đất nước còn bom đạn.
Thu xuất hiện là một cô bé hồn nhiên xinh xắn với mái tóc cắt ngang vai, mặc quần đen áo ông đỏ đang chơi ở nhà chòi. Sau bao năm xa cách, đứng trước con, ông Sáu không kìm nổi xúc động, cất tiếng gọi “Thu,con!”. Ngược lại với niềm mong mỏi ấy, Thu phản ứng khác thường, tỏ ra ngờ vực lảng tránh, ông Sáu càng đến gần, con bé lại càng đẩy ông ra. Đầu tiên, nghe gọi, con bé “giật mình, tròn mắt nhìn”. Đây là một hành động rất tự nhiên, sự ngạc nhiên khó hiểu của Thu khi thấy một người xa lạ gọi mình là con. Sau đó, khi ông Sáu lặp bặp: “Ba đây con”, con bé bỏ chạy và thét lên “Má, má”, đây là phản ứng sợ hãi rất dễ hiểu của một đứa trẻ, Thu chưa sẵn sàng tâm lí để đón nhận sự việc, đón nhận người cha em chưa một lần gặp mặt, hành động của Thu đáng thương hơn là đáng trách.
Thu cũng là một cô bé có cá tính, ngang ngạnh, bướng bỉnh. Mặc những cử chỉ quan tâm của ông Sáu, Thu vẫn gan lì không chịu gọi ba. Khi bị mẹ đánh, con bé chỉ nói chổng: “Vô ăn cơm”, “Cơm chín rồi”, gọi ông Sáu là “người ta”. Chiến tranh đã làm cha con chia lìa, nay còn làm con không nhận ra cha. Khi bị dồn đến đường cùng phải nhờ sự giúp đỡ của ông Sáu, nó vẫn không chịu lễ phép, chỉ nói “Cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái”, “Cơm sôi rồi, nhão bây giờ”. Mặc dù sợ nhưng nó nhất quyết không chịu gọi ông Sáu là ba, nó lấy cái vá múc từng vá nước, lúc này dường như Thu đã trở nên đáng trách hơn là đáng thương, với bé Thu, người trong bức ảnh chụp chung với má mới chính là ba nó. Khi ông Sáu gắp cho nó cái trứng cá to, nó hất ra làm vợ văng tung tóe, bị cha đánh, nó chỉ ngồi im, cúi gằm, gắp cái trứng cá bỏ vào bát rồi đứng dậy sang ngoại và khóc ở bên đấy.
Thu quả là một cô bé ngang ngạnh, nhưng phản ứng của em không hoàn toàn đáng trách vì em còn quá nhỏ để hiểu được mọi chuyện, hơn tất cả, cách hành xử của Thu là do em yêu thương cha quá nhiều. Trong giờ phút chia tay, thái độ và hành động của Thu đã bắt đầu thay đổi. Mặt con bé tối sầm lại, buồn rầu và đôi mắt nó xôn xao. Nó hét lên “Baa..aa..aa”, tiếng gọi kéo dài của tình phụ tử nồng nàn, của sự dồn nén bao nhiêu lâu nay. Cách thể hiện tình cảm ấy chứng tỏ tình yêu thương cha của Thu lớn đến chừng nào, tiếng kêu như tiếng xé, nghệ thuật so sánh và nói quá khắc đậm giây phút xúc động nghẹn ngào. Hóa ra Thu không chịu nhận ba là do vết thẹo dài không giống trong ảnh, khi biết đó là ba, Thu đã bày tỏ tình cảm vô cùng mãnh liệt. Con bé chạy xô tới, nhảy thót lên ôm cổ ba: “Ba ở nhà với con”, bé Thu mong ba ở lại để có thể bù đắp cho ba những tình cảm thiếu hụt đã qua. Thu hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài trên má ba nó. Những cái hôn thể hiện tình yêu sâu sắc và sự hối hận của Thu vì những hành động lạnh nhạt với ba. Thu siết chặt lấy cổ, dang cả hai chân câu chặt lấy ba, đôi vai bé nhỏ của con bé run run “Ba về ba mua cho con một cây lược nghe ba”. Giây phút chia tay của cha con ông Sáu vô cùng cảm động, tình cha con mới chợt đồng điệu thì cũng là lúc ông Sáu phải rời đi. Qua tác phẩm, ta cảm nhận được tình yêu thương cha mãnh liệt đáng trân trọng của cô bé 8 tuổi. Đồng thời thêm thấm thía những đau thương mất mát mà chiến tranh gây ra cho bao gia đình, bao con người, thêm trân trọng giá trị thiêng liêng của hạnh phúc gia đình đơn sơ, giản dị.
Có thể khẳng định “Chiếc lược ngà” là một truyện cổ tích thời hiện đại về tình phụ tử thiêng liêng. Hiểu thêm vẻ đẹp tâm hồn của một em bé Nam Bộ vừa hồn nhiên trong sáng, vừa có cá tính rạch ròi, quyết liệt với tình yêu thương cha sâu sắc trong những năm tháng đất nước còn chưa im tiếng súng.
Cảm nhận về nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà – Mẫu 19
Với nhà thơ Hữu Thỉnh – Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, Nguyễn Quang Sáng là “nhà văn của đồng bằng Nam Bộ”. Bởi “văn chương của ông hồn hậu, mang được hơi thở, phong cách lẫn khẩu khí, phong độ của người dân Nam Bộ rất rõ. (…)Đọc văn anh có cảm giác như được tiếp xúc với cuộc đời thật, với hơi thở cuộc sống thật, với những con người thật mình đã từng gặp đâu đó”. Thật vậy, đọc “Chiếc lược ngà”, qua hình tượng bé Thu, ta như thấy được hình ảnh con người Nam Bộ ở đó.
“Chiếc lược ngà” được viết văn 1966, vào những năm tháng chiến đấu gian khổ, khốc liệt và đau thương nhất của đồng bào Nam Bộ thời chống Mĩ cứu nước. Tác phẩm được chia thành hai lát cắt bởi khoảng cách 12 năm: nhân vật ông Ba gặp cô bé bơ vơ Thu 8 tuổi và tái ngộ cô giao liên Thu 20 tuổi lại có thể chia thành hai câu chuyện: câu chuyện về tình cha con của ông Sáu với Thu, và câu chuyện tài trí của giao liên Thu. Với kết cấu mở, không bó buộc, Nguyễn Quang Sáng đưa người đọc đến với câu chuyện vùng đất miền Tây một cách chân thực và tự nhiên nhất.
Ta thấy được hình ảnh của bao đứa bé miền Nam trong hình ảnh bé Thu. Cô bé phải xa cha khi chưa đầy một tuổi. Tám năm trời, hai cha con chỉ biết nhau qua tấm ảnh. Lần nghỉ phép ba ngày là cơ hội hiếm có để hai cha con gặp lại nhau. Nhưng chỉ vì vết sẹo không giống trong ảnh mà Thu nhất định không chịu nhận ông Sáu là ba. Đến lúc nhận ra thì cũng là giây phút cha phải lên đường. Phút giây gặp gỡ ấy là đầu tiên trong 8 năm của cô bé mà cũng là duy nhất trong cuộc đời cô giao liên ấy.
Điều đầu tiên chúng ta có thể nhận thấy ở cô bé Thu chính là một cô bé bướng bỉnh, có cá tính mạnh mẽ. Phút giây hội ngộ sau bao năm xa cách, trái với sự háo hức và tưởng tượng của aanh Sáu, bé Thu vụt chạy đi, nét mặt đầy sợ hãi kêu “má, má” khiến anh Sáu chỉ biết “nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai cánh tay buông xuống như bị gãy”. Trong ba ngày nghỉ phép ngắn ngủi, người cha ấy chẳng đi đâu, chỉ ở nhà với mong muốn được gần con hơn nhưng con bé lại tỏ ra rất cứng đầu, nhất định không chịu gọi một tiếng “ba”. Nhà văn đã dựng lên một loạt những chi tiết miêu tả hành động, lời nói và thái độ cố chấp của Thu: Khi má bắt kêu ba vô ăn cơm, Thu vẫn chỉ nói trống không “Vô ăn cơm! Cơm chín rồi”, “con kêu rồi mà người ta không nghe”. Hai tiếng “người ta” như một lưỡi dao đâm vào trái tim người cha, anh chỉ biết khẽ lắc đầu cười”. Và cô bé vẫn giữ thái độ kiên quyết ấy, trong mọi tình huống: “Cơm sôi rồi, chắt nước dùm cái.”,”Cơm nhão bây giờ”. Khi ông Sáu gắp cái trứng cá vào chén cho nó thì cô bé “liền lấy đũa xoi vào chén, để rồi bất thần hất cái trứng ra, cơm văng tung tóe cả bàn”. Sau cái đánh của ông Sáu đánh mà vẫn cô bé vẫn không khóc: “Gắp cái trứng cá vào chén”. Hành động ấy chính là đỉnh điểm của thái độ cương quyết từ chối tình yêu thương của ông Sáu. Tính cách mạnh mẽ đến bướng bỉnh, bấp chấp ấy đôi khi khiến người đọc khó hiểu và cả giận em mà thương cho anh Sáu nữa. Nhưng ta vẫn không thể ngưng mỉm cười với hành động giận dỗi rất dễ thương của trẻ con: “xuống bến, nó nhảy xuống xuồng, mở lòi tói cố làm cho dây lòi tói khua rổn rảng, khua thật to”. Và rồi lại không khỏi xúc đọng và thương cho em vì những suy nghĩ rất ngây thơ: vì vết sẹo trên mặt không giống với người cha trong ảnh mà em nhất quyết không chịu nhận cha. Thì ra, tất cả những sự bướng bỉnh, kiên quyết kia của Thu, chỉ là em đang cố giữ gìn hình ảnh người cha trong kí ức, bảo vệ tình cảm của mình với người cha ấy và không muốn ai thay thế điều đó. Sự bướng bỉnh cũng chỉ là cái bọc cho tình yêu thương xa sâu nặng của một tâm hồn trẻ thơ non nớt, chưa hiểu chuyện mà thôi.
Và tình yêu ba sâu nặng của cô bé cũng được thể hiện trong cảnh cảm động nhất của thiên truyện: giây phút chia ly với anh Sáu. Sáng hôm đó, bé Thu được bà ngoại dẫn về nhà, nhưng em vẫn không dám vào gặp ba. Cô bé cứng cỏi lại như thể bị bỏ rơi: Bé Thu đã đứng dõi theo tất cả những hành động của mọi người. Khi nhìn thẳng, đối diện với người cha “đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao”. Đằng sau đôi mắt trẻ thơ ấy biết đâu là những con sóng tình cảm đang xô đẩy dạt dào. Phải đến khi ông Sáu nói lời tạm biệt thì tình cảm trong cô bé bỗng trỗi dậy, thốt thành tiếng:”Baaaa!”. Tiếng kêu như tiếng xé, rồi cô bé “chạy nhanh như sóc ôm lấy cổ ba nó”. Một loạt những cử chỉ liên tiếp: hôn khắp mọi nơi: nó hôn tóc hôn cổ, hôn cả vết thẹo dài trên má của ba – thứ mà đã khiến cha con nó không thể bên nhau trong ba ngày ngắn ngủi nhưng lại là niềm tự hào lớn lao. Và khi ông Sáu nói “Ba đi rồi ba về với con” thì cô bé hét lên: “không”, hai tay siết chặt cổ, dang cả hai chân quặp lấy ba, đôi vai nhỏ run run. Với tất cả sức lực và nước mắt của mình, cô bé mong ba có thể đừng đi, để cô bé có thể bù lại những ngày đã qua, những ân hận trong lòng cô bé. Nhưng cuộc chia ly nào cũng phải có rời xa. Thu đành phải nhìn ba ra đi, và là sự ra đi mãi mãi đối với cô bé…
Như vậy, trong hai cảnh, chúng ta đã thấy hai cô bé Thu hoàn toàn khác nhau. Nhưng dù là bé Thu bướng bỉnh, mạnh mẽ hay bé Thu đầy tình yêu thương cũng chỉ là hai mặt của tình yêu ba sâu nặng. Hình ảnh cô bé Thu hay hình ảnh của biết bao đứa trẻ Nam Bộ, câu chuyện của anh Sáu hay câu chuyện của biết bao gia đình miền Nam. Nguyễn Quang Sáng đã thể hiện tài hoa của mình trong việc thấu hiểu, nắm bắt và thể hiện tâm tư của đứa trẻ. Cách xây dựng tình huống bất ngờ với ngôn ngữ rất từ nhiên, hình ảnh đậm chất Nam Bộ đã góp phần tạo nên thành công truyện. Nguyễn Quang Sáng đi qua làng văn bằng một cái dáng thấp đậm, vừa gần gũi chan hòa vừa nghiêng ngửa phóng túng như thế! Chính tính cách Nguyễn Quang Sáng làm phong phú thêm hương vị cho tác phẩm Nguyễn Quang Sáng. Đọc những trang văn Nguyễn Quang, không thể nào phủ nhận: ông luôn biết cách tìm kiếm những chi tiết nhỏ để vun đắp một cuộc đời lớn!
Xin kết lại bằng nhận xét của nhà văn – nhà phê bình văn học Ngô Thảo về “một trong những con khủng long quý hiếm của nền văn học thời chiến trận mà tác phẩm không có hận thù”, một câu ngắn gọn nhưng không thể đầy đủ hơn: “Nhà văn sinh ra vốn được mặc định phải gánh trên vai rất nhiều trọng trách. Riêng ông Sáng chẳng chịu gánh cái gì nhưng mang lại một gánh sách cho đời, âu cũng là một trường hợp đặc biệt”.
Cảm nhận về nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà – Mẫu 20
Thật hạnh phúc biết bao với những ai sinh ra và lớn lên luôn có cha, có mẹ bên cạnh. Nhưng cũng thật bất hạnh khi ai đó sinh ra trên đời đã thiếu vắng tình cảm của mẹ cha. Và bé Thu trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một con người phải chịu cái cảnh bất hạnh như thế.
Hình ảnh bé Thu là nhân vật trọng tâm của câu chuyện, được tác giả khắc họa hết sức tinh tế và nhạy bén, là một cô bé giàu cá tính, bướng bỉnh và gan góc. Bé Thu gây ấn tượng cho người đọc về một cô bé dường như lì lợm, đến ghê gớm, khi mà trong mọi tình huống em cũng nhất quyết không gọi tiếng Ba, hay khi hất cái trứng mà anh Sáu cho xuống, cuối cùng khi anh Sáu tức giận đánh một cái thì bỏ về nhà bà ngoại. Nguyễn Quang Sáng đã khéo léo xây dựng nhiều tình huống thử thách cá tính của bé Thu, nhưng điều khiến người đọc phải bất ngờ là sự nhất quán trong tính cách của bé, dù là bị mẹ quơ đũa dọa đánh, dù là bị dồn vào thế bí, dù là bị anh Sáu đánh, bé Thu luôn bộc lộ một con người kiên quyết, mạnh mẽ.
Có người cho rằng tác giả đã xây dựng tính cách bé Thu hơi thái quá, song thiết nghĩ chính thái độ ngang ngạnh đó lại là biểu hiện vô cùng đẹp đẽ mà đứa con dành cho người cha yêu quý. Trong tâm trí bé Thu chỉ có duy nhất hình ảnh của một người “cha chụp chung trong bức ảnh với má”. Người cha ấy, không giống anh Sáu, không phải bởi thời gian đã làm anh Sáu già đi mà do cái thẹo trên má. Vết thẹo, dấu tích của chiến tranh đã hằn sâu làm biến dạng khuôn mặt anh Sáu. Có lẽ trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, nó còn quá bé để có thế biết đến sự khốc liệt của bom lửa đạn, biết đến cái cay xè của mùi thuốc súng và sự khắc nghiệt của cuộc sống người chiến sĩ. Cái cảm giác đó không đơn thuần là sự bướng bỉnh của một cô bé đỏng đảnh, nhiều sách mà là sự kiên định, thẳng thắn, có lập trường bền chặt, bộc lộ phần nào đó tính cách cứng cỏi ngoan cường của cô giao liên giải phóng sau này.
Nhưng xét cho cùng, cô bé ấy có bướng bỉnh, gan góc, tình cảm có sâu sắc, mạnh mẽ thế nào thì Thu vẫn chỉ là một đứa trẻ mới 8 tuổi, với tất cả nét hồn nhiên, ngây thơ của con trẻ. Nhà văn tỏ ra rất am hiểu tâm lí của trẻ thơ và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến và trân trọng một cách đẹp đẽ thiêng liêng những tâm tư tình cảm vô giá ấy. Khi bị ba đánh, bé Thu “cầm đũa gắp lại cái trứng cá để vào chén rồi lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm” Có cảm giác bé Thu sợ anh Sáu sẽ nhìn thấy những giọt nước mắt trong chính tâm tư của mình? Hay bé Thu dường như lờ mờ nhận ra mình có lỗi? Lại một loạt hành động tiếp theo “Xuống bến nó nhảy xuống xuồng, mở lòi tói, cố làm cho dây lòi tói khua rổn rang, khua thật to, rồi lấy dầm bơi qua sông”. Bé Thu bỏ đi lúc bữa cơm nhưng lại có ý tạo tiếng động gây sự chú ý. Có lẽ cô bé muốn mọi người trong nhà biết bé sắp đi, mà chạy ra vỗ về, dỗ dành. Có một sự đối lập trong những hành động của bé Thu, giữa một bên là sự cứng cỏi, già dặn hơn tuổi, nhưng ở khía cạnh khác cô bé vẫn mong được yêu quý vỗ về. Trong khi “Chiều đó, mẹ nó sang dỗ dành mấy nó cũng không chịu về”, cái cá tính cố chấp một cách trẻ con của bé Thu được tác giả khắc họa vừa gần gũi, vừa tinh tế.
Ở đoạn cuối, khi mà bé Thu nhận ra cha, thật khó để phủ nhận bé Thu là đứa bé giàu tình cảm. Tình cha con trong Thu giữ gìn bấy lâu nay, giờ trỗi dậy, vào cái giây phút mà cha con phải tạm biệt nhau. Có ai ngờ một cô bé không được gặp cha từ năm 1 tuổi vẫn luôn vun đắp một tình yêu bền bỉ và mãnh liệt với cha mình, dù người cha ấy chưa hề bồng bế nó, cưng nựng nó, săn sóc, chăm lo cho nó, làm cho nó một món đồ chơi kể từ khi nó bắt đầu làm quen với cuộc sống. Nó gần như chưa có chút ấn tượng nào về cha, song chắc không ít lần nó đã tự tưởng tượng hình ảnh người cha nó tài giỏi nhường nào, cao lớn nhường nào, có vòng tay rộng để ôm nó vào lòng ra sao? Tình cảm mãnh liệt trong nó ngăn không cho nó nhận một người đàn ông lạ kia làm bố.
Khi đến ngày anh Sáu phải đi, con bé cứng cỏi mạnh mẽ ngày hôm nào lại “như thể bị bỏ rơi, lúc đứng ở góc nhà, lúc đứng tựa cửa và cứ nhìn mọi người vây quanh ba nó, dường như nó thèm khát cái sự ấm áp của tình cảm gia đình, nó cũng muốn chạy lại và ôm hôn cha nó lắm chứ, nhưng lại có cái gì chặn ngang cổ họng nó, làm nó cứ đứng nguyên ở đấy, ước mong cha nó sẽ nhận ra sự có mặt của nó”. Và rồi đến khi cha nó chào nó trước khi đi, có cảm giác mọi tình cảm trong lòng bé Thu bỗng trào dâng. Nó không nén nổi tình cảm như trước đây nữa, nó bỗng kêu hét lên Ba…, vừa kêu vừa chạy xô đến nhanh như một con sóc, nó nhảy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, hôn cả vết thẹo dài trên má của ba nó nữa. Tiếng kêu Ba từ sâu thẳm trái tim bé Thu, tiếng gọi mà ba nó đã dùng mọi cách để ép nó gọi trong mấy ngày qua, tiếng gọi ba gần gũi lần đầu tiên trong đời nó như thể nó là đứa trẻ mới bi bô tập nói, tiếng gọi mà ba nó tha thiết được nghe một lần.
Bao nhiêu mơ ước, khao khát như muốn vỡ òa ra trong một tiếng gọi cha. Tiếng gọi ấy không chỉ khiến ba nó bật khóc mà còn mang một giá trị thiêng liêng với nó. Lần đầu tiên nó cảm nhận mơ hồ về niềm sung sướng của một đứa con có cha. Dường như bé Thu đã lớn lên trong đầu óc non nớt của nó. Ngòi bút nhà văn khẳng định một nhân vật giàu tình cảm, có cá tính mạnh mẽ, kiên quyết nhưng vẫn hồn nhiên, ngây thơ: Nhân vật bé Thu.
Qua nhân vật bé Thu tác giả đã thể hiện một cách cảm động tình yêu cha sâu sắc trong hoàn cảnh khắc nghiệt, éo le của chiến tranh. Đồng thời cũng là lời khẳng định, dù chiến tranh xảy ra cũng không thể làm vơi cạn được tình người, tình cảm gia đình. Ngược lại chính trong hoàn cảnh này, tình cảm gia đình lại càng trở nên sâu nặng, tha thiết và cao đẹp hơn.
Cảm nhận về nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà – Mẫu 21
Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932, quê ở Chợ Mới, tỉnh An Giang. Là bộ đội thời đánh Pháp, sau năm 1954 tập kết ra miền Bắc mới bắt đầu viết văn. Trong những năm đánh Mĩ, ông sống và hoạt động tại chiến trường Nam Bộ. Những trang văn của ông đậm đặc màu sắc Nam Bộ, bao sự tích anh hùng, những tình huống hấp dẫn đầy kịch tính và giàu chất. Ông để lại nhiều tác phẩm đặc sắc bằng nhiều thể loại, các tập truyện ngắn và nhiều tiểu thuyết khác nổi tiếng, được bạn đọc đón nhận. Ngoài ra ông còn có một số kịch bản phim. Có thể nói, “Chiếc lược ngà” chính là tác phẩm đã làm nên tên tuổi của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Tác phẩm được viết năm 1966 khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ những năm kháng chiến chống Mĩ.
Ông Sáu sau tám năm chiến đấu ở chiến trường, khi được nghỉ phép về thăm nhà, lòng ông nôn nao vì biết sắp được gặp con gái của mình, khi ông đi, con gái của mình mới được hơn một tuổi, lần này trở về không tránh khỏi cảm giác hồi hộp, mong chờ. Có lẽ, tình cảm cha con thiêng liêng khiến ông nhận ngay ra bé Thu khi thuyền vừa mới cập bến, đó là một đứa bé khoảng lên chín, lên mười đang chơi ở gốc xoài. Sự xúc động, vui sướng khiến ông nghẹn ngào gọi tên con: “Thu! Con…”. Khi nghe tiếng ông Sáu ở bến xuồng, Thu “giật mình tròn mắt nhìn” Nó ngơ ngác lạ lùng nhìn rồi bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên ” má, má”. Có lẽ khi nhìn thấy một người lạ mặt, cùng với vết thẹo dài đã khiến cho Thu sợ.
Trong những ngày ông Sáu ở nhà, Thu lại cực kì xa lánh ông, ông càng vỗ về thì nó lại càng đẩy ra, khiến ông sáu rất buồn, con bé cũng không chịu gọi ông là ba. Khi mẹ bảo Thu “mời ba vô ăn cơm”, Thu gọi “trổng” “vô ăn cơm”. Nồi cơm sôi, không tự chắt được con bé cũng nhất quyết không chịu gọi ba để được giúp đỡ. Có thể thấy tính cách của Thu khá ương ngạnh, cá tính, ngang bướng. Nhất là khi Thu quá đáng hất văng miếng trứng cá của ông Sáu gắp cho nó. Bị ba đánh, tưởng như Thu như bao đứa trẻ khác ăn vạ, khóc lóc với mẹ, hay đòi lên án, mà kết quả khiến ta bất ngờ. Nhưng không, nó ngồi im, đầu cúi gằm xuống. “Nghĩ thế nào nó cầm đũa, gắp lại cái trứng cá để vào chén, rồi lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm”. Ít nhiều dù trẻ con, nhưng Thu có tính cách mạnh mẽ, không chịu khóc lấy một giọt nào, mà chạy sang nhà bà ngoại mới oà khóc không dỗ được.
Rồi sau đó, em nghe bà kể mới biết chính chiến tránh đã đem lại vết thẹo dài trên mặt ba. Vừa thương ba, vừa hối hận và căm thù chiến tranh, cảm xúc của em khiến ta thấy xúc động, sự ương ngạnh những ngày qua được giải đáp, con bé thấy ông Sáu trên ảnh không có vết thẹo nên mới không tin, sự ương bướng đó chính là sự bảo vệ cha trong tim cô bé. Khi Thu nhận ra cha, chỉ khi ông Sáu buồn rầu quay lại nhìn nó – không dám lại gần sợ nó lại bỏ chạy như lần trước – nói: “Ba đi nghe con” thì nó bất ngờ lao đến thét lên: Ba., a… a…ba! Rồi ôm chặt lấy ông nức nở “Con không cho ba đi”, tiếng “ba” như vỡ tung ra từ sự nhớ nhung, “nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó”, khóc và hôn lên vết thẹo, thương ba đến vô hạn. Thu vốn là đứa trẻ rất giàu tình cảm.
Thành công trong cách xây dựng nhân vật bé Thu – một cô bé bướng bỉnh, cá tính nhưng có tình cảm yêu ba tha thiết cảm động. Nguyễn Quang Sáng đã tỏ ra rất am hiểu tâm lí trẻ thơ, miêu tả chính xác và độc đáo, bởi vậy nhà văn đã tạo nên được một nhân vật trẻ thơ sống động gây xúc động sâu xa trong lòng người đọc.
******************
Trên đây là 21 bài văn mẫu Cảm nhận về nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng lớp 9 hay nhất. Hy vọng các em sẽ có thêm nhiều ý tưởng mới để hoàn thiện bài văn của mình thêm hay, sinh động hơn. Bên cạnh nội dung đã học, các em cần chuẩn bị bài học sắp tới với phần Phân tích nhân vật bé Thu để nắm vững những kiến thức Ngữ Văn 9 của mình.
Đăng bởi: THPT Ngô Thì Nhậm
Chuyên mục: Giáo Dục