Birth Control là gì?
Birth Control là một cụm từ khá phổ biến và thông dụng trong câu tiếng Anh. “Birth Control ” là một cụm từ được hiểu theo nghĩa là các phương pháp hoặc loại thiết bị khác nhau cho phép mọi người quan hệ tình dục mà không có con.
Cấu trúc: Birth Control + something
(Something ở đây có thể là danh từ)
Ví dụ:
- Some people say that birth control works by affecting your body’s hormone levels, which is why along with preventing unwanted pregnancy, it can also impact other hormonal-related issues like acne.
- Dịch nghĩa: Một số người nói rằng biện pháp tránh thai hoạt động bằng cách ảnh hưởng đến mức độ hormone của cơ thể bạn, đó là lý do tại sao cùng với việc ngăn ngừa mang thai ngoài ý muốn, nó cũng có thể tác động đến các vấn đề liên quan đến hormone khác như mụn trứng cá.
Ví dụ:
Bạn đang xem: Birth Control là gì? Các biện pháp Birth Control
- As you can see, Although both are contraceptive methods, many people use birth control implants or hormonal IUDs for other purposes such as having lighter periods, less PMS symptoms, and managing abdominal pain during the menstrual cycle.
- Dịch nghĩa: Như bạn có thể thấy, Mặc dù cả hai đều là biện pháp tránh thai, nhưng nhiều người sử dụng que cấy tránh thai hoặc vòng tránh thai nội tiết cho các mục đích khác như có kinh nguyệt nhẹ hơn, ít triệu chứng PMS hơn và kiểm soát đau bụng trong chu kỳ kinh nguyệt.
- Some people say that selecting which type of birth control to use can be very confusing, from birth control pills to birth control implants, there are many options to choose from.
- Dịch nghĩa: Một số người nói rằng việc lựa chọn loại biện pháp tránh thai nào để sử dụng có thể rất khó hiểu, từ thuốc tránh thai đến que cấy tránh thai, có rất nhiều lựa chọn để lựa chọn.
- Not all birth control methods are associated with a device, medication, or procedure, so natural family planning, or fertility awareness, involves timing your sexual activity to avoid a woman’s most fertile time.
- Dịch nghĩa: Không phải tất cả các phương pháp ngừa thai đều liên quan đến thiết bị, thuốc hoặc thủ thuật, vì vậy kế hoạch hóa gia đình tự nhiên hoặc nâng cao nhận thức về khả năng sinh sản, liên quan đến thời gian hoạt động tình dục của bạn để tránh thời điểm dễ thụ thai nhất của phụ nữ.
- If they’re looking into your options for birth control, one method they may want to think about is the IUD.
- Dịch nghĩa: Nếu họ đang xem xét các lựa chọn của bạn để kiểm soát sinh sản, một phương pháp mà họ có thể muốn nghĩ đến là vòng tránh thai.
Một số từ liên quan đến Birth Control
Từ/cụm từ
Nghĩa của từ/cụm từ
birth control implant
cấy ghép kiểm soát sinh sản
Artificial Birth Control
Kiểm soát sinh sản nhân tạo
Birth Control – Kiểm soát sinh sản
Kiểm soát sinh sản là một chế độ gồm việc tuân theo một hay nhiều hành động, cách thức, các thực hiện tình dục, hay sử dụng dược phẩm nhằm ngăn chặn hay làm giảm một cách có chủ đích khả năng mang thai hay sinh đẻ.
Có ba cách chính để ngăn chặn hay làm chấm dứt việc mang thai: ngăn thụ tinh của trứng bởi các tế bào tinh trùng (“contraception”), ngăn trứng đã thụ tinh được cấy vào dạ con (“contragestion”), và kích thích hoá học hay phẫu thuật để bỏ phôi hay, ở giai đoạn sau, bào thai. Theo cách sử dụng thông thường, thuật ngữ “ngừa thai” thường được dùng cho cả contraception và contragestion.
Kiểm soát sinh sản thường được coi như một phần của kế hoạch hoá gia đình.
Lịch sử kiểm soát sinh sản bắt đầu với việc khám phá mối liên hệ giữa hành vi giao cấu và sự mang thai. Các hình thức kiểm soát sinh sản cổ nhất gồm ngừng giao cấu, vòng tránh thai, và ăn các loại cỏ từng được cho là có tác dụng tránh thai hay làm sẩy thai. Ghi chép sớm nhất về sự kiểm soát sinh sản là một bộ hướng dẫn từ thời Ai Cập cổ đại về việc tạo ra một vòng có tác dụng tránh thai.
Các biện pháp kiểm soát sinh sản khác nhau các đặc điểm rất khác nhau. Ví dụ, bao cao su, là những biện pháp duy nhất cung cấp sự bảo vệ khỏi việc lây truyền bệnh qua đường tình dục. Thái độ văn hoá và tôn giáo về kiểm soát sinh sản cũng rất khác biệt.
Các biện pháp Birth Control
Các biện pháp nhân tạo
Các biện pháp nhân tạo có thể hoạt động theo nhiều cách, trong đó có: ngăn cản một cách tự nhiên tinh trùng xâm nhập hệ thống sinh sản nữ; về hormon ngăn cản rụng trứng; khiến hệ thống sinh sản nữ thành nơi không thể trú ngụ với tinh trùng; hay bằng phẫu thuật thay đổi hệ thống sinh sản nữ thành vô sinh. Một số biện pháp sử dụng nhiều hơn một cách thức. Các biện pháp tự nhiên khác biệt về mức độ đơn giản, tính dễ áp dụng và hiệu quả.
Các biện pháp vật chướng ngại
Các biện pháp vật chướng ngại đặt một vật ngăn cản trên đường di chuyển của tinh trùng vào hệ thống sinh sản nữ.
Biện pháp chướng ngại phổ biến nhất là bao cao su nam, một bao bằng latex hay polyurethane phủ ngoài dương vật. Bao cao su cũng có loại cho nữ, được làm bằng polyurethane. Bao cao su nữ có một vòng co giãn ở hai đầu — một vòng phía sau pubic bone để giữ bao ở đúng vị trí, vòng còn lại ở bên ngoài âm đạo. Cervical barrier là các thiết bị hoàn toàn ở trong âm đạo. Xốp tránh thai có một chỗ lõm để giữ nó ở vị trí trên cổ tử cung. Mũ tử cung là dụng cụ tử dung nhỏ nhất. Dựa trên kiểu mũ, nó nằm ở vị trí bằng cách mút vào tử cung hay vào thành âm đạo. Màng chắn khớp vào chỗ phía sau pubic bone người phụ nữ và có một vòng chắc nhưng co giãn được, giúp nó ép vào thành âm đạo.
Chất diệt tinh trùng có thể được đặt vào âm đạo trước khi quan hệ tình dục và tạo ra một màng chắn bằng hoá chất. Chất diệt tinh trùng có thể được sử dụng độc lập hay phối hợp với một chướng ngại tự nhiên.
Các biện pháp hormon
Có nhiều cách sử dụng tránh thai hormon. Các hình thức tổng hợp oestrogen và progestin (tổng hợp progestogen) phối hợp thường được dùng gồm thuốc viên tránh thai phối hợp (“Thuốc viên”), Miếng dán, và vòng tránh thai âm đạo (“Vòng Nuva”). Một hình thức có thể tiêm hàng tháng, Lunelle, hiện không được bán tại Hoa Kỳ.
Các biện pháp khác chỉ chứa một progestin (một progestogen tổng hợp). Chúng gồm thuốc viên chỉ gồm progesterone (POP hay ‘minipill’), các loại thuốc có thể tiêm Depo Provera (một công thức dạng cấy của medroxyprogesterone axetat được tiêm vào bắp mỗi ba tháng) và Noristerat (Norethindrone axetat được tiêm vào bắp mỗi 8 tuần), và implant tránh thai. Viên thuốc chỉ chứa progestin phải được sử dụng ở khoảng thời gian chính xác mỗi ngày hơn so với các viên thuốc phối hợp. Viên thuốc tránh thai dạng cấy đầu tiên, Norplant 6 viên nguyên bản, đã bị loại bỏ khỏi thị trường Hoa Kỳ năm 1999, dù một loại thuốc cấy một viên duy nhất mới hơn được gọi là Implanon đã được cho phép bán tại Hoa Kỳ ngày 17 tháng 7 năm 2006. Các biện pháp chỉ sử dụng progestin khác nhau có thể gây ra chảy máu bất thường khi sử dụng.
Ormeloxifene (Centchroman)
Ormeloxifene (Centchroman) là một selective estrogen receptor modulator, hay SERM. Nó khiến việc rụng trứng xảy ra không đồng thời việc thành tạo màng tử cung, ngăn cản hợp tử cấy vào tử cung. Nó đã được chấp nhận rộng rãi như một biện pháp kiểm soát sinh sản tại Ấn Độ từ đầu thập niên 1990, được đưa ra thị trường dưới thương hiệu Saheli. Centchroman chỉ được sử dụng hợp pháp tại Ấn Độ.
Tránh thai khẩn cấp
Một số loại thuốc phối hợp và POPs có thể được dùng với liều cao để tránh có thai sau khi một biện pháp kiểm soát sinh sản đã không thành công (ví dụ rách bao cao su) hay sau một lần quan hệ không có bảo vệ. Thuốc tránh thai khẩn cấp kiểu hormon cũng được gọi là “viên thuốc buổi sáng hôm sau,” dù nó được phép sử dụng trong ba ngày sau khi quan hệ.
Các thiết bị trong tử cung cũng có thể được dùng như biện pháp tránh thai khẩn cấp. Để thực hiện mục đích này, chúng phải được đặt vào trong vòng năm ngày từ khi biện pháp kiểm soát sinh sản trước không thành công hay từ khi quan hệ tình dục không bảo vệ.
Tránh thai khẩn cấp hoạt động bằng cách ngăn trứng rụng. Tuy nhiên, bởi nó ngăn một quả trứng đã thụ tinh không cấy được vào dưới da, một số người coi nó là một hình thức phá thai. Các chi tiết về các biện pháp hành động có thể hiện vẫn đang được nghiên cứu.
Các biện pháp trong tử cung
Có các thiết bị trong tử cung được đặt vào trong tử cung. Chúng thường có hình như một chữ “T” — các nhánh của chữ T giữ thiết bị ở đúng chỗ. Có hai kiểu tránh thai trong tử cung chính: kiểu có chứa đồng (có khả năng diệt tinh trùng), và kiểu giải phóng một progestogen (ở Hoa Kỳ thuật ngữ progestin được sử dụng).
Triệt sản
Triệt sản có thể có dưới hình thức thắt ống dẫn trứng cho nữ và thắt ống dẫn tinh cho nam. Triệt sản phải được coi là một biện pháp vĩnh viễn. Với phụ nữ, quá trình này có thể được gọi là “thắt ống dẫn” (tying the tubes), nhưng các ống dẫn trứng có thể được thắt, cắt, kẹp hay chặn lại. Nó giúp ngăn tình trùng không thể gặp trứng chưa thụ tinh. Quá trình Essure không phẫu thuật, là một cách chặn các ống dẫn, trong đó các thiết bị nhỏ được đặt vào trong các ống dẫn trưng bởi một ống thông xuyên qua âm đạo vào cổ tử cung và tử cung.
Dù thắt ống dẫn trứng phải được coi là một quá trình vĩnh viễn, vẫn có thể đảo ngược nó bằng cách nối lại các ống dẫn trứng. Tỷ lệ thành công phụ thuộc vào kiểu tiến hành đã được thực hiện trước đó và những tổn hại đã có với ống dẫn cũng như độ tuổi của người phụ nữ.
Các biện pháp bằng cách cư xử
Các biện pháp theo cách cư xử là kiểm soát thời gian hay biện pháp quan hệ để tránh đưa tinh trùng vào trong hệ sinh sản nữ.
Nhận thức khả năng sinh sản
Các biện pháp dựa trên triệu chứng của nhận thức sinh sản liên quan tới việc người phụ nữ quan sát và lập biểu đồ các dấu hiệu tăng khả năng sinh sản của cơ thể mình, để xác định những chu kỳ dễ có thai và không thể có thai của mình. Việc lập biểu đồ có thể được thực hiện bằng tay hay với sự giúp đỡ của phần mềm. Hầu hết các biện pháp đều theo dõi một hay nhiều hơn trong ba dấu hiệu sinh sản chủ yếu dưới đây: những thay đổi trong nhiệt độ trung bình của cơ thể, trong dịch nhầy cổ tư cung và trong vị trí cổ tử cung. Nếu một phụ nữ theo dõi cả nhiệt độ trung bình cơ thể và một dấu hiệu khác, biện pháp này có thể được gọi là triệu chứng nhiệt. Các dấu hiệu khác của cơ thể như mittelschmerz được coi là dấu hiệu phụ thứ hai.
Các máy giám sát sinh sản là các thiết bị máy tính hoá quyết định khả năng sinh sản hay không sinh sản dựa trên, ví dụ, các thử nghiệm nhiệt độ hay nước tiểu. Các biện pháp dựa theo lịch như biện pháp chu kỳ và Biện pháp Ngày Tiêu chuẩn ước tính khả năng mang thai dựa trên độ dài của các chu kỳ kinh nguyệt cuối cùng. Để tranh mang thai với nhận thức khả năng sinh sản, việc quan hệ tình dục chỉ giới hạn ở những giai đoạn ít có khả năng mang thai nhất. Trong giai đoạn dễ thụ thai, các biện pháp ngăn chặn cần được áp dụng, hay người phụ nữ phải kiêng quan hệ.
Thuật ngữ kế hoạch hoá gia đình tự nhiên (NFP) thỉnh thoảng được sử dụng để chỉ bất kỳ hình thức sử dụng nào với nhận thức khả năng sinh sản. Tuy nhiên, thuật ngữ này chỉ riêng tới những việc áp dụng được Nhà thờ Cơ đốc giáo La Mã cho phép — không thể mang thai khi cho bú, và kiêng khem theo chu kỳ trong những thời gian dễ mang thai. Các biện pháp FA có thể được sử dụng bởi những người dùng NFP để xác định khoảng thời gian dễ mang thai.
Ngừng quan hệ
Coitus interruptus (dịch nghĩa “quan hệ tình dục ngắt quãng”), cũng được gọi là biện pháp xuất tinh ngoài, là việc chấm dứt quan hệ (“rút ra”) trước khi phóng tinh. Nguy cơ lớn nhất của việc ngừng quan hệ là người nam có thể không thực hiện chính xác, hay có thể là không đúng thời điểm. Dù có những lo ngại về nguy cơ mang thai do tinh trùng trong dịch tiền xuất tinh, nhiều nghiên cứu nhỏ không thể tìm thấy tinh trùng trong dung dịch đó.
Tránh quan hệ đường âm đạo
Nguy cơ mang thai từ quan hệ tình dục ngoài âm đạo, như quan hệ tình dục qua đường hậu môn, khẩu dâm, hay quan hệ tình dục không xâm nhập rõ ràng là bằng không[cần dẫn nguồn]. Một nguy cơ rất nhỏ có từ khả năng tinh trùng thẩm thấu vào âm đạo (với khẩu dâm) hay dính vào một vật, như tay, và sau đó tiếp xúc với âm đạo.
Kiêng hoàn toàn
Các nhóm khác nhau định nghĩa thuật ngữ kiêng khem tình dục khác nhau. Khi được sử dụng trong các cuộc thảo luận về kiểm soát sinh sản, thường việc né tránh mọi hoạt động tình dục – hoàn toàn kiêng tình dục – là nghĩa của nó. Thỉnh thoảng mọi người lựa chọn kiêng khem tình dục để giảm nguy cơ mang thai, và việc kiêng khem tình dục có thể được cho vào danh sách các biện pháp kiểm soát sinh sản. Những người kiêng khem tình dục không mang thai ngoài ý muốn. Các nguồn khác thay vào đó lại không coi kiêng khem tình dục là một hình thức kiểm soát sinh sản.
Kiêng khem tình dục như một biện pháp lâu dài không có hiệu quả ngăn có thai 100%: không phải mọi người dự định kiêng kem đều có thể tự ngăn mình khỏi hoạt động tình dục, và trong nhiều nhóm dân số có một nguy cơ mang thai rất lớn từ hoạt động tình dục không liên ứng. Nếu là một biện pháp y tế công cộng, ước tính hiệu quả của biện pháp kiêng khem ngang với việc sử dụng bao cao su. Một số cơ quan khuyên rằng những người coi kiêng khem là biện pháp tránh thai chính nên có những biện pháp dự phòng thêm khác (như bao cao su hay thuốc tránh thai khẩn cấp).
********************
Đăng bởi: Trường THPT Ngô Thì Nhậm
Chuyên mục: Tổng hợp