Trần Quốc Khái là ai?
Trần Quốc Khái (1606 – 1661), người xã Quất Động, huyện Thường Tín, Hà Nội. Ông làm quan dưới triều vua Lê Chân Tông (1643 – 1659), được cử đi sứ nhà Minh (Trung Quốc) năm 1646, từng chức Thượng thư bộ Công (trông coi ngành công nghệ trong nước), được đổi sang họ vua nên mới có tên là Lê Công Hành.
Ông được mọi người tôn là Ông tổ nghề thêu, hiện ở quê hương còn có đền thờ. Những câu chuyện về ông kể trên đã ít nhiều mang sắc thái dân gian hóa.
Những ghi chép về Trần Quốc Khái trong tài liệu
Theo thần phả của họ Bùi Trần (裴陳) gốc Mạc ở Quất Động thì Lê Công Hành vốn thuộc dòng dõi nhà Mạc. Năm 1546, Mạc Hiến Tông băng hà, triều đình nhà Mạc nổ ra biến loạn. Quân Nam triều nhân cơ hội nhà Mạc suy yếu, nhiều lần tiến quân ra Bắc đánh phá. Hoàng thất nhà Mạc tan tác khắp nơi, Quý phi Bùi Thị Ban đưa Mạc Phúc Đăng (con thứ của Mạc Hiến Tông) chạy tránh loạn về định cư ở thôn Quất Động, về sau đổi thành họ Bùi và họ Trần, lập nên chi họ Bùi Trần ở Quất Động.
Lê Công Hành chính tên là Trần Quốc Khái (陳国概), sinh ngày 18 tháng Giêng năm Bính Ngọ(tức ngày 24 tháng 2 năm 1606), tại làng Quất Động, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam (nay là thôn Quất Động, xã Quất Động, huyện Thường Tín, Hà Nội). Mạc Phúc Đăng là con bà Bùi Thị Ban về lánh nạn ở làng Quất Động. Tại đây, Mạc Phúc Đăng sinh con là Mạc Phúc Đồ. Mạc Phúc Đồ lại là ông nội của Trần Quốc Khái. Vì ông được cho làm con nuôi của một người họ Bùi trong làng, nên còn có tên là Bùi Quốc Khái (裴国概), sau đổi tên thành Công Hành (公衡).
Tương truyền, từ nhỏ ông đã có tiếng ham học và hay chữ. Lớn lên, ông thi đỗ Tiến sĩ (vào khoảng triều vua Lê Thần Tông hoặc Lê Chân Tông). Sau khi ra làm quan, ông được triều đình bổ dụng vào các chức vụ từ biên quận đến triều đình, thăng dần lên hàng Thượng thư, từng được cử đi sứ nhà Minh. Do lập được nhiều công trạng, ông được triều đình ban cho Kim tử Vinh Lộc Đại phu, chức Tả thị lang bộ Công, tước Thanh Lương hầu, được vua ban quốc tính. Do đó mà ông có tên Lê Công Hành.
Ông mất ngày 12 tháng Sáu năm Tân Sửu (7/7/1661),thọ 56 tuổi, được triều đình truy tặng hàm Thượng thư Thái bảo Lương Quận công. Ngày giỗ hàng năm của ông được xem là lễ giỗ tổ nghề của những làng sinh sống bằng nghề thêu tại Việt Nam.
Ông tổ nghề thêu
Trước thế kỷ 18, người Việt đã biết nghề thêu và làm lọng từ lâu. Sử cũ từng ghi vào thời Trần, vua quan quen dùng đồ thêu và lọng. Năm 1289, vua Trần đã gửi tặng vua Nguyên một đệm vóc đỏ thêu chỉ vàng, một tấm thảm gấm viền nhiễu. Tháng Giêng năm Quý Tỵ (1293), Trần Phu trong đoàn sứ nhà Nguyên sang Đại Việt có nhận xét: “Về phẩm hàm của các quan Đại Việt, ai cao ai thấp cứ nhìn vào lọng mà phân biệt. Hễ là khanh tướng thì đi ba cây lọng xanh, bậc thấp hơn thì đi hai lọng, rồi một lọng. Còn như lọng tía thì chỉ có những người trong hoàng tộc mới được dùng”.
Tuy vậy, nghề thêu ở Đại Việt trước thế kỷ XVIII còn đơn sơ, quanh quẩn với những màu chỉ ngũ sắc và chỉ kim tuyến, làm những mặt hàng phục vụ cho vua, quan, cho nhà chùa (thêu mũ, mãng, triều phục, nghi môn, cờ phướn…). Trong ngôi mộ cổ đào được ở Vân Cát, Nam Hà, có niên đại khoảng thế kỷ 18, người ta thấy: bên cạnh cái quạt, có một túi trầu bằng gấm thêu kim tuyến, một túi đựng thuốc lào cũng bằng gấm thêu kim tuyến. Đến thời Bùi Công Hành, ông được cho là đã dạy cho người làng Quất Động những kỹ thuật thêu và làm lọng tân tiến hơn mà ông đã tiếp thu được trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc. Từ đó, nghề thêu và làm lọng trở nên phát triển hơn, lan dần ra nhiều làng nghề trên khắp cả nước. Để ghi nhớ công đức của ông, người dân làng nghề tại Thường Tín lập nên Đền Ngũ Xã (do dân 5 xã lập). Trong đền có tấm bia Vũ Du Tiên sư bi ký ghi lại sự tích của tổ nghề thêu. Ngoài ra còn còn có một số đền thờ khác như như đình Tú Thị ở số 4 phố Yên Thái, quận Hoàn Kiếm, hoặc đền thờ ở phố Hàng Lọng (nay thuộc khu vực đường Nam Bộ) nay không còn, đình làng Nhị Khê thờ Tổ nghề tiện Lê Công Hành…
Lễ giỗ tổ nghề của những làng sinh sống bằng nghề thêu tại Việt Nam thường được tổ chức vào ngày giỗ hàng năm của ông. Chỉ riêng tại Huế, lễ tế Tổ sư nghề thêu Lê Công Hành tại phổ Cẩm Tú – Huế lại được tổ chức vào ngày 22 tháng Giêng âm lịch hằng năm và ngày mồng 4 tháng Sáu âm lịch là ngày kỷ tổ.
Trần Quốc Khái thời còn trẻ
Chuyện cũ kể rằng, hồi còn nhỏ tuổi, cậu bé Trần Quốc Khái vốn là một thiếu niên rất ham học. Cậu học ngay cả khi đi đốn củi, lúc kéo vó tôm. Tối đến, nhà không có đèn dầu, cậu phải bắt đom đóm bỏ vào vỏ trứng để lấy ánh sáng đọc sách. Cậu Khái học đến đâu thuộc đến đấy và nổi tiếng hay chữ một vùng.
Năm 18 tuổi, Trần Quốc Khái bị lí dịch trong làng bắt đi đắp đê sông Hồng. Vi sức yếu không vác nổi những hòn đất to nên bị phạt, phải chôn chân ở mặt đê từ sáng đến trưa. Giữa lúc đó, có một viên quan coi đê đi qua. Thấy khái mặt mũi khôi ngô, lại bị chôn chân, viên quan lấy làm lạ liền dừng lại hỏi:
– Nhà ngươi bị tội gì mà phải chôn chân?
Người thanh niên tên Khái lễ phép thưa:
– Tôi là học trò, sức yếu, không vác nổi những hòn đất to nên bị phạt.
Viên quan coi đê vốn cũng có chút vốn liếng chữ nghĩa, liền cười nói:
– Nếu ngươi là học trò, ta ra cho ngươi một vế đối [3]. Hễ đối được ta tha cho về.
Người thanh niên gật đầu xin vâng.
Viên quan nọ liền đọc:
– Ông quan thị, cắm đường cái tiêu, trị hồng thủy, cho dân được cậy.
Vế đối ra khá oái oăm, có tên bốn thứ quả: quả thị, quả chuối tiêu, quả hồng, quả cậy. Người thanh niên Trần Quốc Khái ứng khẩu đối lại ngay:
– Trai Quýt Động, thi đỗ Bảng nhãn, phù quân vương, phỉ chí mới cam.
Vế đối lại cũng đủ bốn thứ quả: quả quýt, quả nhãn, quả bồ quân và quả cam.
Nghe xong vế đối, viên quan gật đầu khen ngợi và cho về. Từ đấy, Trần Quốc Khái càng nổi tiếng là người hay chữ. Chẳng bao lâu gặp kì thi, Trần Quốc Khái lều chõng đi thi và đỗ Tiến sĩ. Thế là từ một cậu bé đốn củi, kéo vó tôm ở đất thôn quê, do ham học đã trở thành một vị Tiến sĩ, làm quan to trong triều đình nhà Lê. Người ta bảo “đất sỏi có trạch vàng” cũng là nói nên hiện tượng tương tự như thế đấy.
Trần Quốc Khái đi sứ nhà Minh
Một lần ông Khái được triều đình nhà Lê cử đi sứ nhà MInh bên Trung Quốc. Trên đường đi sứ, để thử tài sứ bộ, bọn quan lại nhà Minh không cho đi đường chính mà lại dẫn theo đường tắt. Đến một vùng rừng núi và thung lũng thì hết lương ăn. Ông Trần Quốc Khái bèn cho chặt tre, đan thành những cái dậm, cái nhủi, rồi cho quân lính xuống suối kiếm cá và lên rừng kiếm trái cây để ăn. Nhờ vậy, qua hết quãng đường rừng, đoàn sứ bộ của ta vẫn khỏe mạnh và tiến thẳng đến kinh đô nhà Minh.
Sau khi có Khải vào chầu vua Minh và hoàn thành công việc ngoại giao, vua nhà Minh muốn thử tài trí thông minh của sứ thần Đại Việt. Một lần nữa bèn sai dựng một cái lầu cao chót vót, rồi mời Quốc Khái lên chơi. Khi ông lên đến lầu thì ở dưới đất, quân Minh bèn cất thang đi. Không còn lối xuống nữa, ông đành ở trên lầu một mình, xung quanh trời mây bao la, gió thổi hun hút. Ông đưa mắt nhìn quanh lầu, chỉ thấy có hai pho tượng sơn son thiếp vàng và một chum nước uống, cùng với hai cái lọng cắm trước bàn thờ. Ngoài cửa lầu treo một bức trướng thêu nổi ba chữ “Phật tại tâm” nghĩa là Phật ở trong lòng mình. Trong góc lầu còn có hai cây tre tươi và một con dao.
Một ngày, rồi hai ngày trôi qua, chỉ có một mình trên lầu vắng, bụng đói mà cơm không có ăn, chỉ có một chum nước, ông nghĩ bụng: có nước uống tất phải có cái ăn. Ông quay ra ngoài ngắm bức trướng, rồi lẩm nhẩm: “Phật tại tâm”. Ông gật đầu cười, rồi bẻ tay pho tượng ra ăn thử xem sao. Thì ra hai pho tượng được nặn bằng bột chè lam. Từ đó, ngày hai bữa, ông cứ ung dung bẻ dần hai pho tượng Phật để ăn.
Vốn là người hay làm, ngồi chơi không buồn quá, ông bèn chẻ tre ra vón đan lọng. Ông quan sát kỹ cách làm lọng và nhớ nhập tâm các chi tiết để ghép lọng. Ông lại dùng bọng tre để đun nước uống. Khi đã biết cách làm lọng rồi, ông lại đem bức trướng xuống, tháo các đường chỉ kim tuyến xem cách thêu. Với bàn tay khéo léo và lòng kiên trì, ông lại dùng số chỉ đó thêu vào. Lúc hoàn tất, ngắm nghía ông rất vui, vì nét chữ thêu giống hệt như cũ.
Nhờ cách ấy, mà ông tự học được cách thêu các đường nét nổi và cách làm lọng.
Ít lâu sau, khi ăn hết hai pho tượng và uống hết chum nước, ông loay hoay tìm đường để xuống. Những buổi chiều ngồi ngắm trời mây, thấy những con dơi xòe cánh chao đi chao lại như chiếc lá, ông nảy ra ý định nhảy xuống, và ông đã dừng mắt lại ở hai cái lọng cắm trên lầu. Cuối cùng, ông mạnh bạo ôm hai cái lọng nhảy xuống đất một cách bình an vô sự.
Trước tài trí ứng xử linh hoạt của sứ thần Đại Việt, triều đình nhà Minh vô cùng kính phục. Vua Minh cho làm tiệc lớn để tiễn đưa đoàn bộ sứ của ta. Khi về nước, vì có nhiều công lao với nhà Lê nên ông được phong tước rất hậu, tặng Công bộ Thượng thư thái bảo, được đổi họ sang họ Lê, nên mới có một tên khác nữa là Lê Công Hành.
********************
Đăng bởi: Trường THPT Ngô Thì Nhậm
Chuyên mục: Tổng hợp