Thành ngữ là gì?
Theo chương trình môn Ngữ Văn lớp 7, thành ngữ được định: “Thành ngữ là loại cụm từ có cấu tạo cố định, biểu thị một ý nghĩa nhất định hoàn chỉnh. Nghĩa của thành ngữ có thể bắt nguồn trực tiếp từ nghĩa đen của các từ tạo nên nó nhưng thường thông qua một số phép chuyển nghĩa như ẩn dụ, so sánh,…”
Xét về mặt ngữ pháp thì thành ngữ chưa thể là một câu hoàn chỉnh, vì thế nó chỉ tương đương với một từ. Thành ngữ không nêu lên một nhận xét, một kinh nghiệm sống, một bài học luân lý hay một sự phê phán nào cả nên nó thường mang chức năng thẩm mỹ chứ không có chức năng nhận thức và chức năng giáo dục, mà thiếu hai chức năng này thì nó không thể trở thành một tác phẩm văn học trọn vẹn được. Cho nên, thành ngữ thuộc về ngôn ngữ.
Ví dụ: thành ngữ “Đục nước béo cò” có hai nghĩa: nghĩa bóng và nghĩa đen.
Nghĩa bóng: “Đục nước” ở đây có nghĩa chỉ cơ hội. Một điều thú vị hơn là tạo sao “đục nước” lại chỉ béo mỗi chú cò và chính cò là biểu hiện của kẻ cơ hội? Mỗi lần nước đục, cảnh đàn cá tranh ăn, cá lớn nuốt cá bé khuấy động cả một vùng chính vì thế vò trở thành kẻ được lợi, biểu trưng cho hạng người cơ hội, trở thành kẻ cướp công, được lợi sau cuộc chiến cá ăn cá ấy.
Nghĩa bóng: Cò là một loài vật đêm ngày lặn lội kiếm con ốc, bắt con tôm, con cá trên đồng ruộng. Phải nhọc nhằn lắm, may ra cò mới kiếm được miếng ăn hàng ngày. Thế những, trong các vụ cày bữa, ruộng nước đục ngầu, bùn, lấm làm cho cá tôm ở dưới nước không chịu được phải ngoi mình lên mặt nước. Thế là chẳng vất cả bao công, cứ thế cò chén những con vật xấu số do hoàn cảnh “đục nước” mà phải ngoi mình làm mồi cho nó. Biết lợi dụng vụ cày bừa, với những chân ruộng đục nước, cò có thể kiếm chác, nuôi thân béo mầm. Đó là ý mà câu thành ngữ muốn nói đến.
Đặc điểm và cấu tạo của thành ngữ
Thành ngữ có đặc điểm là tính hình tượng, được xây dựng dựa trên những hình ảnh cụ thể. Chúng có tính khái quát và hàm súc cao, được xây dựng từ các sự vật và sự việc. Tuy nhiên nghĩa của chúng không dựa vào những từ cấu tạo nên chúng. Thành ngữ thường mang một ý nghĩa rộng hơn, khái quát hơn và thể hiện được sắc thái biểu cảm
Có nhiều cách phân loại về cấu tạo của thành ngữ như sau:
– Dựa vào số lượng thành tố trong thành ngữ:
- Thành ngữ có kết cấu ba tiếng. Đây là kiểu thành ngữ có hình thức là tổ hợp ba tiếng một, nhưng về mặt kết cấu, đó chỉ là sự kết hợp của một từ đơn và một từ ghép. Ví dụ như: Ác như hùm, bụng bảo dạ, chết nhăn răng,…
- Thành ngữ có kết cấu từ hai từ ghép hoặc bốn từ đơn theo kiểu nối tiếp hoặc xen kẽ. Đây là kiểu thành ngữ phổ biến nhất của thành ngữ tiếng việt. Trong đó, có thể chia ra thành 2 loại thành ngữ là: Kiểu thành ngữ có láy ghép và thành ngữ tổ hợp của hai từ ghép. Ví dụ: Ăn bớt ăn xén, chết mê chết mệt hoặc Nhắm mắt xuôi tay, bày mưu tính kế, ăn bờ ngủ bụi,…
- Thành ngữ có kết cấu năm hoặc sáu tiếng: Trẻ không tha già không thương, treo đầu dê bán thịt chó,…
Ngoài ra, còn tồn tại một số kiểu kết cấu thành ngữ có bảy, tám, mười tiếng. Đó có thể là hai hay ba mệnh đề liên hợp tạo thành một thành ngữ dài cố định, ví dụ như: vén tay áo xô đốt nhà táng giày,…
– Dựa vào kết cấu ngữ pháp: Câu có kết cấu chủ ngữ – vị ngữ + trạng ngữ (hoặc tân ngữ): Nước đổ đầu vịt, chuột sa chĩnh gạo,…
Vai trò của thành ngữ
Thành ngữ có thể làm chủ ngữ, vị ngữ trong câu hay làm phụ ngữ trong cụm danh từ, cụm động từ,…
Thành ngữ ngắn gọn, hàm súc, có tính hình tượng và tính biểu cảm cao nên có thể dễ dàng bày tỏ, bộc lộ được tâm tư, tình cảm của người nói, người viết.
Ví dụ: Trong bài thơ “Thương vợ” của Trần Tế Xương đã sử dụng rất nhiều thành ngữ:
” Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Một duyên, hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa, dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:
Có chồng hờ hững cũng như không”
Trong đoạn thơ này, tác giả đã sử dụng thành ngữ “Lặn lội thân cò khi quãng vắng” để chỉ sự lam lũ, vất vả của người đàn bà trong cuộc đời ông. Tấm thân gầy gò “lặn lội”, lam lũ của người vợ chẳng khác nào tấm thân cò lặn lội kiếm ăn trong đêm khuya. Tác dụng của thành ngữ được sử dụng trong đoạn thơ này là thể hiện nỗi xót xa của nhà thơ trước sự vất vả của người vợ, từ đó thể hiện tình cảm và sự đồng cảm với nỗi vất vả của vợ nhiều hơn..
Một số thành ngữ thường gặp
“Dĩ hoà vi quý” là thành ngữ chỉ những người luôn lấy trọng tâm là sự hoà hợp, từ đó cho thấy cách đối nhân xử thế của con người đó trong xã hội.
“Đừng xem mặt mà bắt hình dong” dùng để phê phán những người không có kiến thức nhưng lại luôn cho mình là người có hiểu biết, bó mình trong một không gian nhỏ hẹp mà không chịu bước ra thế giới bên ngoài để khám phá và trải nghiệm những điều mới.
Ngoài ra còn có một số thành ngữ khác như: “Sức khoẻ là vàng”, ” Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa”,…