Câu 1: Thử chia văn bản thành ba phần và đặt tiêu đề cho mỗi phần. Tìm hiểu những chi tiết xuất hiện ở cả phần 1 và phần 3 tạo nên sự kết nối chặt chẽ.
Đoạn trích có thể chia làm ba phần:
– Phần một: Tình bạn tổi thơ trong sáng;
Bạn đang xem: Soạn bài Những đứa trẻ – trích – Soạn văn 9
– Phần hai: Tình bạn bị cấm đoán;
– Phần ba: Tình bạn vẫn được duy trì.
Xuyên thấm cả ba phần trên là các yếu tố nghệ thuật chủ chốt: những đứa trẻ, những con chim, truyện cổ tích, người dì ghẻ, người bà hiền hậu đã xuất hiện ở phần đầu lại xuất hiện ở phần thứ ba, tạo nên mối quan hệ kết nối thống nhất và chặt chẽ, gây được ấn tượng sâu sắc trong người đọc.
Câu 2: Xem xét hoàn cảnh của chú bé A-li-ô sa, ba đứa con của đại tá Ốp-xi-an-ni-cốp và quan hệ giữa hai gia đình để lí giải vì sao tình bản tuổi thơ trong trắng ấy để lại ấn tượng sâu sắc cho nhà văn, khiến hơn ba mươi năm sau ông vẫn còn nhớ như in và thuật lại hết sức xúc động.
Thông qua các đối thoại, nội dung đoạn trích gây được ấn tượng mạnh mẽ bởi hình ảnh những đứa trẻ sống thiếu tình thương.
Ông bà ngoại của A-li-ô-sa là hàng xóm của đại tá Ốp-xi-an-ni-cốp, nhưng hai gia đình lại có địa vị xã hội khác nhau, điều đó tạo ra bức tường ngăn cách mối quan hệ tự nhiên giữa những đứa trẻ. Nhìn sang hàng xóm, A-li-ô-sa chỉ biết “Ba đứa cùng mặc áo cánh và quần dài màu xám, cùng đội mũ như nhau. Chúng có khuôn mặt tròn, mắt xám và giống nhau đến nỗi tôi chỉ phân biệt được chúng theo tầm vóc”.
Do tình cờ, A-li-ô-sa góp sức cứu đứa trẻ – con của gia đình đại tá rơi xuống giếng nên ba đứa trẻ nhà đại tá rủ A-li-ô-sa sang chơi. Hoàn cảnh sống thiếu tình thương đã tạo nên tình bạn trong sáng giữa các bạn nhỏ.
Khi mấy đứa trẻ kể về chuyện mẹ chết, “chúng ngồi sát vào nhau giống như những chú gà con”. Hình ảnh đó rất giàu sức gợi.
Câu 3: Tìm trong văn bản một số hình ảnh của ba đứa trẻ hàng xóm qua sự cảm nhận tinh tế của A-li-ô-sa; sau đó phân tích và bình luận những hình ảnh đó.
– Trước khi quen thân, nhìn sang hàng xóm, A-li-ô-sa chỉ biết: “Ba đứa cùng mặc áo cánh và quần dài màu xám, cùng đội mũ như nhau. Chúng có khuôn mặt tròn, mắt xám và giống nhau đến nỗi tôi chỉ có thể phân biệt được chúng theo tầm vóc”.
– Khi mấy đứa trẻ kể chuyện mẹ chết, chỉ còn dì ghẻ mà chúng gọi là “mẹ khác” rồi lặng đi, Go-rơ-ki kể: “Chúng ngồi sát vào nhau giống như những chú gà con”. So sánh chính xác khiến ta liên tưởng cảnh lũ gà con sợ hãi co cụm vào nhau khi nhìn thấy diều hâu, đồng thời toát lên sự thông cảm của A-li-ô-sa với nỗi bất hạnh của các bạn nhỏ.
– Khi đại tá Ốp-xi-an-ni-cốp bất chợt xuất hiện, mắng: “Đứa nào gọi nó sang?”, Go-rơ-ki viết: “Tức thì cả mấy đứa trẻ lặng lẽ bước ra khỏi chiếc xe và đi vào nhà, khiến tôi lại nghĩ đến những con ngỗng ngoan ngoãn”. Đây là lần thứ hai nhà văn dùng hình tượng so sánh này. So sánh chính xác vừa thể hiện dáng dấp bên ngoài của ba đứa trẻ, vừa thể hiện thế giới nội tâm của chúng. Chúng bị bố áp chế, lẳng lặng vào nhà, chẳng dám hé răng. Tác giả còn kể ở đoạn dưới: “… tôi nhớ lại thì không bao giờ chúng tôi nói một lời nào về bố và về dì ghẻ”. Một lần nữa A-li-ô-sa thông cảm với cuộc sống thiếu tình thương của các bạn nhỏ.
Câu 4: Chuyện đời thường và truyện cổ tích được lồng vào nhau trong nghệ thuật kể chuyện của Gơ-ro-ki như thế nào qua các chi tiết liên quan đến những người mẹ và những người bà trong văn bản này?
Đoạn trích thể hiện đặc sắc trong nghệ thuật kể chuyện đan xen giữa chuyện dời thường và truyện cổ tích. Thông qua chi tiết về “dì ghẻ”, khi mấy đứa trẻ hàng xóm nhắc đến “mẹ khác”, A-li-ô-sa liên tưởng ngay đến nhân vật mụ dì ghẻ độc ác trong truyện cổ tích. Khi những đứa trẻ nói về “mẹ thật”, A-li-ô-sa cũng có những suy tưởng như độc thoại nội tâm, lạc ngay vào không khí truyện cổ tích. Chi tiết người bà nhân hậu cũng được kể lại bằng giọng của truyện cổ tích: “ngày trước, trước kia, đã có thời”,…
Nghệ thuật kể chuyện đan xen giữa chuyện dời thường và truyện cổ tích của Mác-xim Go-rơ-ki đã giúp cho đoạn trích “Những đứa trẻ” nói riêng và tác phẩm “Thời thơ ấu” nói chung trở nên sinh động và hấp dẫn.