Đề bài: Phân tích hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa
Bạn đang xem: Phân tích hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa
4 bài văn mẫu Phân tích hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa
1. Phân tích hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa, mẫu 1:
“Bếp lửa” là bài thơ tuyệt hay của Bằng Việt. Bài thơ đã đi qua một hành trình nửa thế kỉ, nhưng đọc lúc nào, ta cũng cảm thấy hay, xúc động kì lạ.
Giọng thơ ngọt ngào, tha thiết. Hình ảnh người bà đôn hậu, con chim tu hú, kỉ niệm vui, buồn thời thơ ấu … và hình ảnh bếp lửa, tất cả cứ sống dậy trong tâm hồn ta. Hình ảnh bếp lửa thật đẹp và đầy ấn tượng vì bếp lửa là sự sống, là nguồn hạnh phúc gia đình, là tình thương cho con cháu của bà. Có bà mới có bếp lửa.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa. Các từ láy”ấp iu, chờn vờn” được sử dụng thật đắt, thật tài tình, vừa gợi tả ngọn lửa, vừa làm hiện lên người bà đang nhóm lửa:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớmMột bếp lửa ấp iu nồng đượmCháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Có bếp lửa tất có khói. Bếp lửa nhà nghèo lắm khói. Bếp lửa thời tản cư, thời kháng chiến lại càng thêm nhiều khói:
Lên bốn tuổi, cháu đã quen mùi khói …Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháuNghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
Cháu đã sống trong lòng bà, được bà chăm chút yêu thương. “Bà dạy cháu làm, bà dạy cháu học”. Nhà nghèo, bố mẹ đi công tác xa, nên đã: “Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa”. Bếp lửa đã sưởi ấm tình thương, tình bà cháu. Cháu thương bà, cháu muốn được san sẻ cùng chim tu hú khi nghĩ về bếp lửa:
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bàKêu chi hoài trên nhũng cánh đồng xa?
Những bài Phân tích hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa hay nhất
Bà tần tảo, bà vất vả thức khuya dậy sớm, để nhóm lửa, làm ngọn lửa, bếp lửa sáng lên, sưởi ấm hạnh phúc gia đình, thấm sâu vào tình thương vào tâm hồn con cháu. Nhờ thế mà sức sống, nguồn sống, nguồn vui hạnh phúc gia đình dai dẳng, bền bỉ, bất diệt.
Các động từ : nhen, ủ, chứa và hình ảnh bếp lửa , ngọn lửa được tác giả dùng thật đắt, nói lên thật đẹp niềm tin nếp sống đó:
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhenMột ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵnMột ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…
Càng về cuối giọng thơ càng trở nên bồi hồi, tha thiết. “Đời bà lận đận” trải nhiều “mưa nắng” suốt mấy chục năm rồi, cho “đến tận bây giờ” bà vẫn “giữ thói quen dậy sớm” để nhóm bếp lửa, vì sự ấm no hạnh phúc của con cháu. “Niềm yêu thương”, “khoai sắn ngọt bùi”, “nồi xôi gạo mới sẻ chung vui”, “những tâm tình tuổi nhỏ”…đều do bà nhóm. Điệp ngữ “nhóm” bốn lần cất lên làm sáng bừng vần thơ, làm sáng tâm hồn con cháu. Có thể nói đây là những câu thơ đẹp nhất nói về bà và hình ảnh bếp lửa:
Mấy chục năm rồi, đến tận bâỵ giờBà vẫn giữ thói quen dậy sớmNhóm bếp lửa ấp iu nồng đượmNhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùiNhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vuiNhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏÔi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!
Người đọc cảm thấy cả một đàn con cháu đông vui đang ngồi xung quanh bà, xung quanh bếp lửa trong mái ấm hạnh phúc gia đình mỗi sáng mỗi chiều. Câu cảm thán cuối đoạn thơ như một tiếng reo cất lên của đứa cháu nhỏ, tiếng reo của ngọn lửa bập bùng trong bếp lửa được bà “nhen” lên và “ủ sẵn” cả cuộc đời.
Hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa luôn luôn gắn bó với người bà thân yêu. Dù đang sống và học tập ở phương xa, đứa cháu vẫn luôn nhớ khôn nguôi về người bà đôn hậu và bếp lửa ở quê nhà. Câu hỏi tu từ khép lại bài thơ làm cho nỗi nhỡ bà, nhớ bếp lửa, nhớ gia đình, nhớ quê hương càng trở nên sâu lắng, thiết tha, bồi hồi:
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàuCó lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngảNhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở.- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?
Thơ ca dân tộc chưa có nhiều bài thơ viết về người bà kính yêu trong gia đình. Nguyễn Duy nói về bà ngoại qua bài thơ “Đò Lèn” với kí ức tuổi thơ thật cảm động. “Bếp lửa” của Bằng Việt là một bài thơ cứ cuốn hút lấy tâm hồn tuổi thơ chúng ta. Hình ảnh người bà thân thương và hình ảnh bếp lửa được tác giả nói đến vừa gần gũi thân quen, vừa thiêng liêng kì lạ. Tình cảm là nguồn sống của tâm hồn, là sức sống của thi ca. “Bếp lửa” quả có bao nguồn sáng và sức sống dào dạt như vậy.
——————-HẾT BÀI 1———————-
Trong chương trình học Ngữ Văn lớp 9 phần bài Bếp lửa – Bằng Việt là một nội dung quan trọng các em cần chú ý Soạn bài Bếp lửa đầy đủ.
2. Phân tích hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa, mẫu 2:
Trong cuộc đời mỗi người, kỉ niệm tuổi thơ bao giờ cũng đẹp đẽ thân thuộc và chứa chan tình nghĩa. Bởi những kỉ niệm ấy thường gắn bó với những con người ruột thịt. Với Bằng Việt kỉ niệm về bà và tình bà cháu chắc là sâu nặng lắm thân thiết lắm nên mới khơi nguồn dòng cảm xúc nồng ấm để sáng tạo một tác phẩm đặc sắc: bài thơ Bếp lửa. Có thể đấy là những kỉ niệm riêng của nhà thơ, song đọc bài thơ chúng ta vẫn được sưởi chung với nhà thơ hơi lửa của tình người thật gần gũi ân nghĩa, thật cao đẹp và thiêng liêng. Theo diễn biến tâm tư của nhân vật người cháu, chúng ta cảm nhận thấm thìa từng cung bậc tâm trạng.
Ngỡ như ta đang nhóm bếp lửa vậy – lửa của kỉ niệm tuổi thơ, lửa cuộc sống lúc đã trưởng thành, bếp lửa của bà xưa là lửa của trăm nhà ngày nay.
Tám câu thơ đầu là kỉ niệm mới nhen lúc đứa cháu bôn tuổi:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớmMột bếp lửa ấp iu nồng đượmCháu thương bà biết mấy nắng mưa…
Đọng lại trong mấy dòng thơ là chữ thương và hình ảnh bà lặng lẽ, âm thầm trong khung cảnh biết mấy nắng mưa. Vậy là kỉ niệm đã sông dậy từ tình cảm cháu nhớ thương bà và cuộc sông của hai bà cháu đầy khó khăn gian khổ:
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏiBố di đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Gia cảnh như thế nên tuổi thơ của cháu và tuổi già của bà sao tránh được những cơ cực xót đau. Bao nhiêu kỉ niệm xa xưa được nhớ lại.
Phân tích hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa, văn mẫu tuyển chọn
Trong đó có một ấn tượng nhất, nổi lên lay động tâm hồn. Đó là ấn tượng về khói bếp khói từ một bếp lửa của nhà nghèo.
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói …Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháuNghĩ lại bây giờ sống mũi còn cay…
Mùi khói, rồi lại khói hun… nhà thơ đã chọn một chi tiết thật sát hợp, vừa miêu tả chân thật cuộc sông tuổi thơ vừa thể hiện những tình cảm da diết bâng khuâng xót xa thương mến. Nghĩ lại bây giờ sông mũi còn cay nhấn lại dòng kỉ niệm xoáy sâu trong tiềm thức, lay mạnh cả tâm hồn và thể xác con người, dường như cả người đọc cũng cảm thấy cay cay nơi sống mũi. Thơ Bằng Việt có sức truyền cảm mạnh mẽ nhờ ở những chi tiết ngôn từ chân thực và giản dị như thế. Cái bếp lửa kỉ niệm của nhà thơ vừa mới khơi lên, thoang thoảng mùi khói, mờ mờ sắc xanh… Mà đã đấy ắp những hình ảnh hiện thực, thấm đẫm biết bao nghĩa tình sâu nặng.
Đoạn thơ tiếp theo:
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa(…)Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng.
Từ trong sương khói mịt mờ của tuổi nhỏ thổi hồng lên kỉ niệm tuổi thiếu niên khi quê hương đất nước có chiến tranh. Ngôn ngữ hình ảnh thơ rõ dần. Giọng thơ thủ thỉ như giọng kể trong chuyện cổ tích, có thời gian không gian. Có sự việc nhân vật cụ thể tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa, con số không lớn nhưng ngày tháng cứ kéo dài ròng rã, nặng nề. Bởi vì những ngày ở Huế ấy cuộc sống gia đình thật hoang vắng, quạnh hiu. Bố mẹ bận công tác xa không về. Chỉ có hai bà cháu cặm cụi bên nhau nhóm lửa mỗi sáng mỗi chiều trong tiếng tu hú kêu. Nếu trong kỉ niệm hồi bôn tuổi – ở phần trên – ấn tượng đậm nhất của cháu là mùi khói thì đến đây ấn tượng là tiếng tu hú kêu. Trong mười câu thơ mà có tới năm lần âm vang tiếng tu hú. Lúc mơ hồ vãng vẳng từ những cánh đồng xa, lúc gần gũi sao mà tha thiết thế, tiếng tu hú như than thở sẻ chia. Có lúc nó gióng giả, dồn dập kêu kêu hoài. Trong cảnh sông đơn côi chỉ có hai bà cháu giữa đói nghèo và chiến tranh. Tiếng tu hú phải chăng là tiếng đồng vọng của đất trời, để an ủi kiếp người đau khổ? Đưa tiếng tu hú – một âm thanh rất đồng nội ấy – đã cho thấy thi sĩ Bằng Việt quả là một hồn thơ gắn bó sâu nặng với quê hương. Trong các cung bậc khác nhau của tiếng tu hú, nỗi nhớ của người cháu mỗi lúc một tha thiết mạnh mẽ và hình ảnh người bà hiện lên mỗi lúc một đậm nét. Bên bếp lửa hồng bà kể chuyện, chuyện đời thực ngày nay chuyện cổ tích đời xưa… rồi bà bảo cháu nghe, bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học… Từng việc, từng việc, nhỏ nhẹ, âm thầm hai bà cháu từng ngày từng tháng và tám năm ròng cùng nhau nhóm bếp lửa để sưởi ấm để soi sáng trí tuệ và tâm hồn. Hình ảnh bếp lửa và việc nhóm lửa cùng hình ảnh bà tần tảo âm thầm bên trong tiếng tu hú cứ trở đi, trở lại vấn vít, xoắn quyện vào nhau, dệt lên bức tranh xao xuyến.
Đứa cháu lớn dần. Cuộc sống khó khăn hơn. Song nghị lực người bà vẫn bền vững, tấm lòng người bà vẫn mênh mông. Kỉ niệm mà người cháu nhớ bà cứ trang trải như ánh sáng bếp lửa. Ý thơ mở tiếp những sự việc cụ thể:
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụiHàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,Mày viết thư chớ kể này, kể nọCứ bảo nhà vẫn được bình yên!”.
Lời thơ chân thực như chính cuộc sống đang hiện lên. Xin cứ để nguyên khôi chẳng cần phân tích lí lẽ nhiều lời, chúng ta vẫn thấm thìa vẻ đẹp tinh thần của cả một thế hệ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm vừa qua. Đó là tình đoàn kết xóm làng, là ý chí nghị lực của những người mẹ, người bà ở hậu phương hướng ra tiền tuyến và đẹp hơn hết, rộng hơn, cao cả hơn là vẻ lung linh bất diệt của tình bà cháu hoà trong tình yêu quê hương, tổ quốc. Do đó không phải ngẫu nhiên, từ hình ảnh bếp lửa, đến đây lời thơ bừng sáng thành ngọn lửa:
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵnMột ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng
Bếp lửa ở những câu thơ trên, chủ yếu thể hiện cuộc sống âm thầm lặng lẽ trong căn nhà nhỏ hẹp của hai bà cháu. Từ ngọn lửa ở dòng thơ này đã mang ý nghĩa khái quát rộng lớn hơn. Đó là sức sông là tình thương, là niềm tin của bà trong cuộc sông của hai bà cháu, cuộc sông của cả gia đình rộng ra là đối với toàn dân tộc, với công cuộc chiến đấu lúc bấy giờ. Hình ảnh ngọn lửa toả sáng trong câu thơ, lung linh chân dung người bà và làm ấm lòng cả trái tim bạn đọc chúng ta. Ngọn lửa biểu tượng của sự sông muôn đời bất diệt, không chỉ là kỉ niệm của riêng bà trong tình bà cháu trong bài thơ này mà còn là biểu tượng cho toàn dân tộc trong giai đoạn chông Mĩ xâm lược thắp sáng cho đến tận hôm nay.
Ớ đoạn cuối, kỉ niệm tuổi thơ lắng dần, chuyển từ cảm xúc nhổ’ thương của đứa cháu nhỏ đối với bà sang những suy nghĩ sâu sắc về cuộc đời, về ân sâu nghĩa nặng của người thanh niên trưởng thành ngày nay đối với thế hệ ông bà, cha mẹ ngày trước:
Lận dận đời bà biết mấy nắng mưaMấy chục năm rồi đến tận bây giờBà vẫn giữ thói quen dậy sớmNhóm bếp lửa ấp iu nồng đượmNhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùiNhóm nồi xôi gạo mới sẽ chung vuiNhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏÔi kì lạ và thêng liêng – bếp lửa…
Hình ảnh người bà ôm trùm cả đoạn thơ. Điệp từ nhóm được nhắc lại bôn lần mang bôn ý nghĩa khác nhau, bồi đắp cao dần toả sáng dần nét kì lạ của bếp lửa và vẻ đẹp thiêng liêng của người bà từ vóc dáng đến việc làm nhất là nghĩa tình sâu nặng của bà. Nhóm bếp lửa ấy là cái bếp có ánh lửa sáng và hơi ấm. Nhóm niềm yêu thương là bà truyền cho cháu tình ruột thịt nồng ấm. Nhóm nồi xôi gạo mới thổi chung vui bà mở rộng tấm lòng đoàn kết, gắn bó với làng xóm quê hương. Và cuối cùng người bà kì diệu ấy nhóm dậy khơi dậy giáo dục thức tỉnh tâm hồn và sức sống tuổi thanh xuân thơ ấu để đứa cháu khôn lớn nên người.. Để đưa cháu được đi xa, được thấy ngọn lửa khói trăm tàu, để có lửa trăm nhà niềm vui trăm ngả, ngôn ngữ văn chương dạt dào như sóng rồi lan toả như lửa ấm, hay ở đây là cảm xúc dâng trào, đang toả ấm nhân vật người cháu, của nhà thơ? Mỗi câu mỗi chữ cứ hồng lên, nồng ấm biết bao tình cảm nhớ thương ân nghĩa. Đó là đạo lí cội nguồn dân tộc Việt Nam chúng ta trong quan hệ gia đình, con cái đối với cha mẹ, cháu đối với ông bà, tổ tiên. Vẻ đẹp của đạo lí: Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, ra sông nhớ suối có ngày nhớ đêm…
Tóm lại qua hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ bếp lửa gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về tình bà cháu, đồng thời thể hiện tấm lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của cháu đối với bà và cũng là đối với quê hương gia đình đất nước.
Bài thơ kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với kể chuyện, miêu tả và bình luận. Thành công của bài thơ còn là sự sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà để làm điểm tựa khơi gợi mọi kỉ niệm cảm xúc và suy nghĩ về tình bà cháu.
Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!
Hình ảnh âm điệu thơ đặc sắc, sáng mãi ngân mãi trong lòng chúng ta.
——————-HẾT BÀI 2——————-
Ngoài nội dung ở trên, các em có thể tìm hiểu thêm phần Soạn bài Đoàn thuyền đánh cá nhằm chuẩn bị trước nội dung bài Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận SGK Ngữ Văn lớp 9.
3. Phân tích hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa, mẫu 3:
Trong kí ức con người có rất nhiều giai đoạn đáng để nhớ để lưu giữ thế nhưng đẹp nhất chỉ có thể là những năm tháng tuổi thơ êm dịu. Những năm tháng ấy sẽ đi theo con người đến suốt cả cuộc đời. Và với nhà thơ Bằng Việt cũng không ngoại lệ. Kí ức tuổi thơ với hình ảnh bếp lửa và người bà đã trở thành những kí ức đẹp nhất trong cuộc đời nhà thơ.
Có thể nói hình ảnh bếp lửa trong tác phẩm của Bằng Việt đã trở thành hình ảnh xuyên suốt một vùng không gian và thời gian. Từ kí ức cho đến hiện đại, từ những năm tháng gian khổ trong kháng chiến đến những ngày tháng bôn ba nơi xứ lạ. Hình ảnh bếp lửa với hình ảnh người bà tần tảo đã trở thành một hoài niệm vô cùng sâu sắc của nhà thơ.
Những câu thơ đầu hiện lên trong tâm trí của nhà thơ đầy suy ngẫm:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớmMột bếp lửa ấp iu nồng đượmCháu thương bà biết mấy nắng mưa”
Đó là hình ảnh một bếp lửa nhuốm màu cổ tích chờn vờn trong sương sớm. Ngọn lửa không to cũng chẳng nhỏ xua tan đi cái lạnh giá của vùng nông thôn buổi sáng tinh mơ. Hình ảnh đó khắc sâu trong tâm trí non nớt của đứa cháu bé bỏng. Nó chứa đựng cả một vùng trời kí ức, một miền tuổi thơ đầy sóng gió. Gắn liền với đó là hình ảnh của người bà dầu dải biết mấy nắng mưa. Nắng mưa ở đây không chỉ là những hiện tượng mang tính thiên nhiên thời tiết mà nó còn là những nắng mưa đời bà. Những bão giông của cuộc đời hằn lên đôi vai gầy khắc khoải của bà. Điệp từ “một bếp lửa” được lặp đi lặp lại nhiều lần như khắc sâu vào trong tâm trí của tác giả nó làm sống dậy biết bao nhiêu kí ức tươi đẹp tuổi thơ.
Bốn tuổi cháu đã ở bên bà cháu nhớ đến những năm tháng đầy gian khổ đó đến giờ như còn sống dậy trong tâm trí:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khóiChỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháuNghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”
Phân tích hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa để thấy được ý nghĩa biểu tượng của bếp lửa trong bài thơ
Có thể nói Bằng Việt đã vô cùng khéo léo khi nhắc lại những kỉ niệm tuổi thơ đầy mộc mạc giản dị thông qua hình ảnh vô cùng gợi hình. “mùi khói”, “nhèm mắt cháu”, “sống mũi còn cay”… những kỉ niệm đó như xoáy sâu vào tiềm thức non nớt của đứa trẻ bốn tuổi làm cho người đọc cũng thấy cay cay nơi sống mũi. Người ta thường bảo niềm vui thì nhanh quên nhưng nỗi buồn sự cơ hàn luôn theo con người đến hết đời quả không sai. Nếu như tuổi thơ của cháu đầy đủ về vật chất với bếp điện bếp ga thì có đâu hình ảnh khói hun nhèm mắt cháu theo cháu đến cả những phương trời xa lạ đến thế?
Tám năm ròng cùng bà cùng bếp lửa. Tuổi thơ của người cháu thấm đẫm những trang buồn của đời bà của đất nước.
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụiHàng xóm bốn bên trở về lầm lụiĐỡ đần bà dựng lại túp lều tranhVẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninhBố ở chiến khu bố còn việc bốMày có viết thư chớ kể này kể nọCứ bảo nhà vẫn được bình yên”.
Xin cho miễn bình luận gì nhiều về tứ thơ này. Hãy cứ để nó nguyên phôi đến thế. Tâm lí của bà cũng trải dọc cùng nỗi đau của đất nước. Bà cũng như hình ảnh của biết bao nhiêu bà mẹ trên khắp mảnh đất chữ S này, vẫn yêu thương con vô bờ bến. Đó là vẻ đẹp tinh thần của cả một thế hệ, tình yêu thương đoàn kết đùm bọc của xóm làng đã trở thành những hậu phương vững chắc cho tiền tuyến phương xa.
Vì thế ở đây hình ảnh bếp lửa đã cháy hừng hực thành cả một ngọn lửa:
“Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵnMột ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”
Từ bếp lửa mang ý nghĩa hẹp của tình bà cháu nó đã trở thành một ngọn lửa bất diệt của tình người. Ý thơ mang ý nghĩa khái quát rộng lớn. Đó chính là sức sống tình thương niềm tin của bà cháu và rộng hơn đó là của cả toàn dân tộc trong công cuộc vệ quốc vĩ đại lúc bấy giờ. Ngọn lửa đại biểu cho sự sống bất diệt không chỉ sưởi ấm trái tim tác giả mà còn sưởi ấm trái tim độc giả và biết bao thế hệ con người.
Hình ảnh bếp lửa cuối bài nhuốm màu sắc suy tư về cuộc đời của đứa cháu trưởng thành:
“Mấy chục năm rồi đến tận bây giờBà vẫn giữ thói quen dậy sớmNhóm bếp lửa ấp iu nồng đượmNhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùiNhóm nồi xôi gạo mới sẽ chung vuiNhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏÔi kì lạ và thêng liêng – bếp lửa…”
Hình ảnh người bà và bếp lửa chính là hai hình ảnh xuyên suốt và chi phối hết cả tứ thơ. Bếp lửa ở đây không chỉ mang ý nghĩa là thắp sáng tỏa nhiệt và mang lại hơi ấm nữa. Nó đã trở thành nơi để bà thắp lên những tình cảm yêu thương nồng cho đứa cháu. Mở ra cả một chân trời tri thức, cho cháu biết thế nào là yêu thương thế nào là tình làng nghĩa xóm. Để giờ đây khi đứa cháu đứng trên mảnh đất xung quanh toàn những con người xa lạ vẫn không thôi nhớ về hình ảnh bếp lửa giản dị của bà. Ngôn ngữ trăm lời không thể gói gọn và diễn tả tình cảm mãnh liệt bất diệt của đứa cháu.
Có thể nói bằng ý thơ giản dị ngôn từ mộc mạc Bằng Việt đã khắc họa cả một bầu trời kỉ niệm cho người đọc nhiều suy ngẫm. Tình cảm gia đình chính là thứ tình cảm chân quý và bình dị nhất trong mỗi con người. Nó mang con người đến sự tốt đẹp và hoàn mỹ nhất.
4. Phân tích hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa, mẫu 4:
Kỉ niệm tuổi thơ ai mà chẳng có. Tuổi thơ trong hồi ức của người chiến sĩ trong thơ Xuân Quỳnh là tiếng gà giữa trưa hè, là “con sông xanh mát” với Tế Hanh, là những ngày tháng “níu váy bà đi chợ Bình Lâm, bẻ trộm quả ở chùa” trong kí ức Nguyễn Duy, … Còn với Bằng Việt, kí ức của người con xa quê được gửi trọn trong hình ảnh bếp lửa. Hình tượng bếp lửa trong bài thơ cùng tên là điểm tựa, xuyên suốt cả bài thơ.
Bài thơ “Bếp lửa” được viết năm 1963, khi tác giả đang học tập tại Liên Xô. Đây là thời kì đất nước ta đang tiến hành cuộc kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ là dòng hồi tưởng, suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành về những kỉ niệm tuổi thơ bên bà, bên bếp lửa. Qua đó thể hiện lòng kính yêu, biết ơn bà- đó cũng là tình yêu quê hương đất nước. Bài thơ mở ra với hình ảnh bếp lửa ấm áp thân quen, từ đó gợi về những kỉ niệm tuổi thơ bên bà bên bếp lửa. Từ những kỉ niệm tuổi thơ ấy mà người cháu suy ngẫm vê bà, về công việc nhóm bếp lửa của bà. Kết thúc bài thơ, trở lại với hiện tại, người cháu trưởng thành hôm nay vẫn nhớ về bà, về bếp lửa. Cả bài thơ là lời của người của người cháu ở xa vẫn nhớ về bà, về quê hương đất nước được gửi qua hình ảnh bếp lửa. Bếp lửa chính là hình tượng trung tâm, xuyên suốt tác phẩm, cùng với hình tượng người bà để lam nên ý nghĩa tác phẩm.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa ấm áp, thân quen- bếp lửa khơi nguồn nỗi nhớ:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớmMột bếp lửa ấp iu nồng đượm”
Điệp ngữ “một bếp lửa” đã nhấn mạnh hình ảnh bếp lửa- hình ảnh khơi nguồn nỗi nhớ. Từ láy “chờn vờn” gợi hình ảnh bếp lửa với ngọn lửa bập bùng khi tỏ khi mờ trong làn sương sớm mai hay làn sương của kí ức thời gian? Đặc biệt từ “ấp iu” là biến của từ “ấp ủ” và “nâng niu” đã gợi lên sức nóng của bếp lửa, vừa gợi công việc nhóm lửa với bàn tay người nhóm khéo léo, kiên nhẫn và cả tấm lòng chi chút của người nhóm lửa. Để rồi từ đó, nó khơi nguồn cho nỗi nhớ: “cháu thương bà biết mấy nắng mưa”.
Hình ảnh bếp lửa còn gắn với bà, với những kỉ niệm tuổi thơ. Hình ảnh bếp lửa được gợi bằng nhiều giác quan: có thị giác (“chờn vờn sương sớm”), có cảm giác (“ấp iu nồng đượm”) và giờ là khướu giác (“sống mũi còn cay”) đến xúc giác (“hun nhèm mắt cháu”). Không còn khoảng cách thời gian, mọi hình ảnh gắn với bếp lửa đã được tái hiện chân thực, rõ ràng, không còn là kí ức xa xôi nữa!
Không nói mà tình cảm vẫn dạt dào, không hô hào mà người ta vẫn không thể làm ngơ trước sự chân thành của con người. Đó có lẽ là những gì Bằng Việt đã làm khi xây dựng hình ảnh bếp lửa và bà sóng đôi, song hành với nhau, tuy hai mà là một, và rồi chỉ còn trong trí nhớ cháu một cái gì “ấp iu, nồng đượm”. Bếp lửa của những ngày tháng cháu cùng bà vượt qua nạn đói, cùng bà học, cùng bà làm, …
Phân tích hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa
Rồi từ hình ảnh bếp lửa mà cháu suy ngẫm về bà, về ngọn lửa bà nhen:
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhenMột ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵnMột ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”
Bếp lửa bà nhen lên mỗi sớm mỗi chiều nay đã thành ngọn lửa. Qua thời gian, năm tháng, qua chiến tranh đói khổ, bếp lửa ấy chưa bao giờ tắt. Bởi nó không chỉ được nhen lên bằng nhiên liệu củi rơm mà từ lòng bà “luôn ủ sẵn”- bà đã nhen lên ngọn lửa của chính lòng mình. Bởi vậy, từ bếp lửa đến ngọn lửa với ý nghĩa trừu tượng khái quát. Điệp ngữ “một ngọn lửa” cùng các động từ “nhen, chứa” đã khẳng định sự bất diệt của ngọn lửa- ngọn lửa niềm tin tình thương trong lòng bà. Hình ảnh bà lung linh trong ngọn lửa hồng, lồng lộng trong tâm tưởng người cháu. Trong cảm nhận của nhà thơ không chỉ là người nhóm lửa, người giữ lửa mà còn là người truyền lửa- ngọn lửa của sự sống, của niềm tin cho thế hệ mai sau.
Rồi bếp lửa bà nhóm lên mỗi sớm mai là bếp lửa của yêu thương, của niềm vui san sẻ:
“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượmNhóm tình yêu thương khoai sắn ngọt bùiNhóm nồi xôi gạo mới xẻ chung vuiNhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏÔi kì lạ và thiêng liêng- Bếp lửa”
Đoạn thơ đã khơi lên ý nghĩa thiêng liêng trong công việc nhóm lửa của bà. Điệp từ “nhóm” đứng đầu các câu thơ đan kết những chi tiết quen thuộc của mỗi gia đình. Bếp lửa bà nhóm lên mỗi sớm mai bắt đầu một ngày mới, một cuộc đời mới. Bếp lửa nhóm lên vị ngọt bùi của khoai sắn- nhóm lên tình yêu thương, sẻ chia trong cái đạm bạc, nghèo khó. Bếp lửa bà nhóm dậy cả tình làng nghĩa xóm với “nồi xôi gạo mới xẻ chung vui”. Bếp lửa cả nhóm lên khát vọng tuổi thơ “những tâm tình tuổi nhỏ”. Mỗi lần từ “nhóm” nhắc lại, ta lại thấy thêm ý nghĩa cao quý trong công việc thầm lặng của bà. Cả đoạn thơ đã khắc họa đậm nét hình ảnh người bà- người phụ nữ Việt Nam với bao phẩm chất cao quý. Cháu yêu bà mà thêm yêu đất nước, dân tộc. Đoạn thơ khép lại trong câu thơ: “Ôi kì lạ và thiêng liêng bếp lửa”. Bếp lửa kì lạ và thiêng liêng bởi luôn có hình ảnh người bà gắn bó, bếp lửa là tay bà nhóm, ngọn lửa được ủ sẵn trong lòng bà, hơi ấm bếp lửa hay tình bà nồng ấm. Bếp lửa của bà chứa niềm tin và sức sống diệu kì!
Đến cuối tác phẩm, hình ảnh vẫn theo cháu về đến thực tại, là lời nhắc nhở của cháu luôn nhớ về bà. Bà và bếp lửa luôn thường trực trong lòng cháu. Ngọn lửa của bà đã trở thành kỉ niệm ấm lòng, thành niềm tin thiêng liêng, kì diệu nâng bước cháu trên suốt chặng đường đời. Lòng biết ơn bà, nhớ về bà hay chính là tình yêu quê hương đất nước của người con xa quê.
Như vậy, bài thơ có sự kết hợp giữa tự sự với miêu tả, bình luận khiến cho ý thơ vừa giàu cảm xúc, vừa sâu sắc. Thể thơ tám chữ với cảm xúc hồi tưởng, suy ngẫm. Hình tượng bếp lửa và bà sóng đôi làm điểm tựa khơi nguồn mọi kỉ niệm, cảm xúc của cháu. Bài thơ chứa đựng một triết lí nhẹ nhàng mà sâu sắc: những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người ta trên suốt chặng đường đời. Và tình yêu thương bà, lòng biết ơn bà- tình cảm gia đình là cội nguồn của mọi tình yêu quê hương đất nước.
Cứ nhẹ nhàng, mộc mạc mà thấm thía, sâu xa, bếp lửa của bà, ngọn lửa của bà, tình yêu thương của bà đã soi tỏ con đường cháu đi. Có thể sau này, trong cuộc sống hiện đại, không còn nhiều biết đến bếp lửa như mảnh quê nghèo ấy nữa nhưng nó đã thành biểu tượng, là hình ảnh của vẻ đẹp con người, nghĩa tình của dân tộc Việt Nam.
——————-HẾT——————-
Ngoài nội dung ở trên, các em có thể tìm hiểu thêm phần Soạn bài Đoàn thuyền đánh cá nhằm chuẩn bị trước nội dung bài Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận SGK Ngữ Văn lớp 9.
Đăng bởi: THPT Ngô Thì Nhậm
Chuyên mục: Giáo Dục