Việt Nam là đất nước có một nền văn hoá nghệ thuật đa dạng dựa trên tập quán sinh sống của từng vùng miền. Trong đó ta có quan họ, chèo là điểm nổi bật của miền Bắc, miền Trung câu hò, miền Nam dân ca. Trong số những điệu nhạc dân gian Việt Nam có một tác phẩm rất nổi tiếng là Lý cây bông, vậy nhưng không phải ai cũng biết về tác phẩm này. Sau đây, xin mời các bạn cùng trường THPT Ngô Thì Nhậm tìm hiểu Lý cây xanh là dân ca vùng nào?
Lý là gì? Nguồn gốc xuất xứ?
Trước khi tìm hiểu lý cây xanh là dân ca của vùng miền nào trên đất nước ta, ta cần phải hiểu lý là gì?
Lý là một thể loại âm nhạc dân gian tồn tại trong sinh hoạt văn hóa tinh thần của người Việt từ Bắc đến Nam, nhưng phổ biến nhiều nhất là từ Thừa Thiên Huế, Nam Trung bộ trải dài đến khu vực Nam bộ. Các điệu Lý xuất phát từ nguồn gốc lao động mà ra, đó là thứ nghệ thuật dân gian tự phát của người bình dân. Nhất là trong quá trình khai phá vùng đất mới Nam bộ. Lý đề cập đến nhiều đề tài, mọi góc độ, trạng thái của tình cảm, mọi hiện tượng cuộc sống, cùng những mơ ước của quần chúng, qua nhiều thế hệ nối tiếp nhau. Những điệu Lý song hành cùng con người nơi đây tạo nên nét đặc trưng riêng, tuy mộc mạc, giản dị nhưng luôn mang chất ngọt ngào, trữ tình và đặc sắc. Các điệu Lý là thể loại âm nhạc dân gian truyền khẩu, sử dụng thể thơ lục bát hoặc lục bát biến thể, kết hợp với cụm từ, điệp ngữ, âm đệm… tưởng như dư thừa trong câu hát, nhưng đó chính là cái hay để thể hiện mọi cung bậc tình cảm của điệu Lý. Như bài Lý lu là, lời gốc: Ai về Giồng Dứa qua truông. Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em. Nhưng khi hát phải thêm những câu đệm: Ai về Giồng Dứa (mà) qua truông. Gió lay (lu là) bông sậy (ơi nàng ơi) bỏ (ớ ơ ơ) buồn (ơi nàng ơi mà) cho em…
Lý là một trong những thể loại âm nhạc dân gian của Việt Nam
Lý như là một điệu hát dân dã, bình dân ngắn gọn, dễ nhớ. Những điệu Lý thường sinh động về nội dung, phong phú về điệu thức và rất đa dạng về ngôn từ. Những điệu Lý luôn mang tính đặc trưng của người nông dân mộc mạc, vì thế Lý không mang lời hát cầu kỳ, bóng bẩy giàu chất văn chương bác học. Khi những điệu Lý phát triển ở Nam bộ, nó mang thêm tính phóng khoáng, bộc trực của người dân sông nước nơi đây, luôn nói lên tinh thần tích cực, sức sống mạnh mẽ của người nông dân. Lý Nam bộ có vần, có điệu rất gần với ca dao, hò, vè nhưng lại mang tính nhạc điệu (hát), còn ca dao, hò, vè mang tính ngâm vịnh (thơ ca) nhiều hơn. Mỗi điệu Lý thường có nội dung rõ ràng, như nói về những kinh nghiệm trong sản xuất như Lý đất giồng, Lý kéo chài. Ca ngợi cái đẹp trong thiên nhiên như Lý chim xanh, Lý giọng bóng. Ca ngợi đức tính tốt của con người như Lý Ba Tri, Lý cái kéo. Hoặc mỉa mai, châm biếm cái xấu, bọn cường hào như: Lý con khỉ, Lý bình vôi, Lý kêu đò…
Các điệu Lý thường được lấy tên từ các loại cây trái, bông hoa, chim thú, cá nước, bánh trái hoặc các vật dụng quen thuộc, các phương tiện lao động hàng ngày, hay các nhân vật tầng lớp trong xã hội, đến các phong tục, lễ nghi, hội hè. Như Lý cây khế, Lý cây mù u, Lý con mèo, Lý con sam, Lý bờ đắp, Lý chim thằng chài… Có những tên điệu Lý nghe rất lạ như: Lý cháo Lý cơm, Lý nón treo, Lý xôi vò, Lý cơm khô Lý cơm cháy, Lý ông Thôn, Lý chú Chệt, Lý bập boòng boong… Qua đó, chúng ta thấy tên các điệu Lý đều xuất phát từ những đồ vật, sự kiện, cảnh vật hoặc những nhân vật có thực trong đời sống của người lao động. Bất cứ cái gì họ gặp, họ thấy, họ biết đều có thể trở thành điệu Lý. Xuất phát từ lao động mà hình thành nên những điệu Lý, vì thế trong lúc đang lao động người ta cũng hát Lý được với nhau, lúc nghỉ ngơi cũng ngân nga các điệu Lý. Đó là cách bày tỏ tâm sự, nói lên tình cảm lạc quan, ước mơ, khát vọng của mình trước cuộc sống.
Cách đặt tên điệu lý
Để có được một cái tên phù hợp, không phải ngẫu hứng mà có được, việc đặt tên cho các điệu lý có quy luật riêng như sau:
- Đặt tên từ nội dung của lời hát (ca dao): lý con cúm núm, lý con sam, lý con sáo, lý ngựa ô, lý cây bần, lý cây gòn, lý trái bắp, lý trái mướp, lý dầu dừa, lý mù u, lý bình vôi, lý cái phảng, lý chúc rượu, lý qua cầu, lý cấy, lý đương đệm, lý cảnh chùa, lý vọng phu…
- Đặt tên từ một số từ đầu của câu hát: lý con cua, lý con chuột, lý con mèo, lý chim chi, lý chim sắc, lý chim chuyền, lý cây xanh, lý cây bông, lý cây ớt, lý mạ non, lý dừa tơ, lý trồng hường, lý chẻ tre, lý chiếu bông, lý chiều chiều, lý bánh canh, lý dĩa bánh bò, lý ông hương, lý nàng dâu, lý ba xa kéo chỉ, lý xăm xăm, lý liễn vũ…
- Đặt tên theo tiếng đệm lót hoặc tiếng láy đưa hơi: lý í a, lý băng rù, lý bằng lưu thủy, lý bằng rằng, lý cống xê xang, lý giọng ứ, lý hố khoan, lý hố mơi, lý kỳ hợi, lý lu là, lý tú lý tiên, lý rị đa (hoặc lý đu đê), lý rường ơ, lý tang tình, lý ợ, lý yến ảnh..
- Đặt tên các điệu lý giọng bông theo xuất xứ của loại hình ca bóng rỗi; hoặc đặt tên theo đặc tính của nhóm tiếng đệm mô phỏng các bậc âm của “chữ đờn” dân tộc; hoặc tiếng tụng niệm kinh kệ: lý bản đờn, lý cống chùa…
- Đặt tên theo địa danh: lý Ba Tri, lý Cái Mơn…
Một số trường hợp cùng một làn điệu nhưng mang tên lý khác nhau, và ngược lại
Lý là một thể loại âm nhạc dân gian với những nét đặc trưng vốn có, là kho tàng vô giá của một trong những làn điệu dân tộc cần gìn giữ và phát huy.
Trả lời câu hỏi Lý cây xanh là dân ca vùng nào?
Lý cây xanh là một bài dân ca Nam Bộ.
– Làn điệu dân ca Nam Bộ: là những bài hát ngắn gọn, mộc mạc không có tác giả, được sáng tác do nhu cầu sinh hoạt, từ cuộc sống của người dân và được phổ biến bằng truyền khẩu từ đời này sang đời khác, từ vùng này sang vùng khác.
– Nội dung bài Lý cây xanh (dân ca Nam Bộ): yêu cây xanh, yêu thiên nhiên và biết bảo vệ môi trường. Qua nội dung bài hát, trẻ biết được tác dụng của cây xanh, trẻ biết yêu quý, bảo vệ cây xanh và bảo vệ môi trường.
Trích nguyên bản lời và hợp âm của điệu Lý cây xanh
Lời bài Lý cây xanh
Cái cây xanh xanh
Thì lá cũng xanh
Chim đậu trên cành
Chim hót líu lo
Líu lo là líu lo
Líu lo là líu lo
Hợp âm bài Lý cây xanh
Giáo án dạy bài Lý cây xanh bậc mầm non
Yêu cầu
Dạy trẻ hát một bài mới vừa khó, vừa dễ, trẻ có thể ghi nhớ nhanh, tuy nhiên phải có hướng dạy chính xác, với bài Lý cây xanh, các cô cần đạt được những yêu cầu sau đây: