Đề bài: Cảm nhận của em về đoạn trích Chiếc lược ngà
Bạn đang xem: Cảm nhận của em về đoạn trích Chiếc lược ngà
Cảm nhận của em về đoạn trích Chiếc lược ngà
I. Dàn ý Cảm nhận của em về đoạn trích Chiếc lược ngà
1. Mở bài
– Sơ lược về tác giả Nguyễn Quang Sáng và phong cách sáng tác.- Vài nét về vị trí và nội dung của Chiếc lược ngà.
2. Thân bài:
* Nhan đề:– Nó là mơ ước của bé Thu và nó cũng tượng trưng cho tình cảm cha con sâu nặng của ông Sáu với cô bé Thu từ lúc còn sống cho đến cả lúc hy sinh.- Là kỷ vật cuối cùng mà ông Sáu để lại cho con, đồng thời cũng khắc sâu nỗi đau đớn mà chiến tranh đã để lại trong mỗi gia đình, sự mất mát, đau thương, sự chia cắt…(Còn tiếp)
>> Xem Dàn ý Cảm nhận của em về đoạn trích Chiếc lược ngà chi tiết tại đây.
II. Bài văn mẫu Cảm nhận của em về đoạn trích Chiếc lược ngà
1. Cảm nhận của em về đoạn trích Chiếc lược ngà, mẫu số 1 (Chuẩn)
Nguyễn Quang Sáng – nhà văn sinh ra, lớn lên và hoạt động chủ yếu trên chiến trường miền Nam, với lối viết mộc mạc, bình dị, đậm chất Nam Bộ, những trang viết của ông về cuộc sống, con người nơi đây trong hai cuộc kháng chiến ác liệt của dân tộc và trong những năm tháng sau hòa bình luôn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” – câu chuyện cảm động về tình cha con, ra đời vào năm 1966 là một trong số những tác phẩm xuất sắc nhất của ông.
Trước hết, truyện ngắn “Chiếc lược ngà” đã xây dựng được hai tình huống truyện đặc sắc, để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc. Tình huống được kể đến đầu tiên đó chính là cuộc gặp gỡ đầy xúc động của hai cha con ông Sáu sau tám năm trời đằng đẵng xa cách nhưng thật trớ trêu là bé Thu lại không chịu nhận cha. Đến lúc bé Thu nhận ra thì ông Sáu lại phải lên đường về lại đơn vị. Thêm vào đó, truyện còn xây dựng được tình huống độc đáo khác nữa, đó chính là khi ông Sáu ở khu căn cứ đã dồn hết tình yêu thương để làm tặng bé Thu một chiếc lược ngà nhưng chưa kịp trao con thì ông Sáu đã hi sinh. Trong lúc hấp hối, ông đã nhờ đồng đội chuyển cho con chiếc lược mình đã làm. Như vậy, có thể thấy, tác phẩm đã xây dựng được hai tình huống độc đáo và giàu ý nghĩa. Đó đều là những tình huống giàu kịch tính với nhiều yếu tố bất ngờ, từ đó đã thể hiện tình cảm cha con sâu nặng, thắm thiết. Đồng thời, nhân vật được đặt vào trong những tình huống éo le đã làm bộc lộ tính cách và tình cảm cha con, để rồi từ đó tác giả đã khẳng định sự thiêng liêng, cao cả và sức mạnh của tình cảm cha con.
Những bài Cảm nhận của em về đoạn trích Chiếc lược ngà hay nhất
Bên cạnh việc xây dựng tình huống truyện đặc sắc, truyện ngắn “Chiếc lược ngà” còn xây dựng được những nhân vật độc đáo và trước hết đó chính là nhân vật bé Thu. Bé Thu là một cô bé có tình yêu thương cha sâu sắc, tám năm trời đằng đẵng xa cho, cô bé ấy luôn khao khát được gặp lại cha và rồi cái ngày cô hằng ao ước ấy đã đến. Những tưởng bé Thu sẽ vui mừng khôn xiết, sẽ chạy sà vào lòng ba mà ôm, mà hôn, thế nhưng, mọi thứ lại hoàn toàn ngược lại. Nghe tiếng ba gọi, rồi đến lúc gặp ba, cô bé “tròn xoe mắt” như chẳng thể hiểu chuyện gì đang xảy ra rồi vội chạy đi tìm mẹ. Trong quãng thời gian ít ỏi ba ngày ở nhà, mặc cho ông Sáu dành bao nhiêu yêu thương, quan tâm, dỗ dành cho bé Thu thì bé Thu vẫn nhất quyết không chịu gọi một tiếng ba, những lúc cần nói với ông Sáu, cô bé luôn nói cộc lốc. Và ngay cả những lúc khó khăn nhất như phải chắt nước một nồi cơm to bé Thu vẫn loay hoay, tự xoay xở, tự làm. Đặc biệt, trong bữa cơm, khi ông Sáu gắp trứng cá cho bé Thu, cô bé đã hất ra khiến cơm văng tung tóe. Chính vì điều đó, bé Thu đã bị ông Sáu trách phạt, nhưng con bé không khóc mà bỏ về nhà ngoại. Bé Thu đã không chịu nhận ba chỉ vì trên mặt ông Sáu có vết thẹo, khác với bức hình mà tám năm qua bé Thu nhìn thấy. Để rồi, khi được bà ngoại giải thích mọi chuyện, bé Thu đã hiểu ra tất cả. Sáng hôm sau, bé Thu trở về nhà, đó cũng chính là lúc ông Sáu phải chia tay mọi người để lên đường trở lại đơn vị. Lúc này đây, thái độ của bé Thu với ông Sáu đã thay đổi hoàn toàn, không còn cái vẻ cau có, cố chấp nữa mà giờ đây chỉ còn khuôn mặt “sầm lại buồn rầu”, “đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao” khi bắt gặp ánh nhìn trìu mến và buồn rầu của ba nó. Để rồi, khi ông Sáu nói lời chia tay với mọi người, bé Thu đã cất tiếng gọi ba – một tiếng kêu đến xé lòng, tiếng kêu của tình yêu thương, của nỗi nhớ, của sự chờ đợi mà cô bé ấy đã cố giấu trong mình suốt tám năm qua. Cô bé ấy ôm chặt lấy ba, hôn ba thật nhiều và hôn lên cả vết thẹo. Cô bé ấy ước sao ba sẽ ở nhà với mình chứ không đi nữa. Và đến lúc chia tay ba, bé Thu ao ước ba sẽ mua cho mình một chiếc lược ngà, để luôn thấy ba và tình yêu của ba cạnh mình. Như vậy, có thể thấy, bé Thu là một người con tuy bướng bỉnh nhưng rất giàu lòng yêu thương, quý mến ba.
Cùng với nhân vật bé Thu, nhân vật ông Sáu cũng là nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc. Trở về quê hương, gia đình sau tám năm trời đằng đẵng xa cách, ngày trở về, bao nỗi nhớ thương khiến ông Sáu xúc động mãnh liệt. Nỗi niềm xúc động ấy của ông Sáu đã được tác giả thể hiện bằng những hình ảnh, câu văn giàu xúc động “không thể nào chờ xuồng cập lại bến, anh nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra… vội vàng với những bước chân dài”. Để rồi, khi trở về nhà, trước thái độ của con, ông đã rơi vào tâm trạng đau khổ “anh đứng sững lại đó, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”. Trong ba ngày ít ỏi ở nhà, ông không đi đâu xa mà luôn gần gũi, tìm đủ mọi cách, kiên nhẫn chờ sự thay đổi của bé Thu, chờ bé Thu gọi ông một tiếng ba. Và đến lúc con nhận mình cũng là lúc ông phải xa con, xa gia đình, quê hương, tình cảm cha con sâu nặng cũng được tác giả bộc lộ thật xúc động “ghìm được xúc động và không muốn cho con nhìn thấy mình khóc, một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc con”. Những giọt nước mắt của ông Sáu không chỉ là giọt nước mắt xúc động mà còn là giọt nước mắt của niềm hạnh phúc lớn lao, nó ứa ra từ tình yêu thương con sâu sắc của ông Sáu.
Chia tay con, ông Sáu mang theo lời hứa mua tặng con một chiếc lược ngà trở lại chiến trường. Để rồi, khi trở lại chiến trường, ông luôn ân hận và khổ tâm vì đã trách phạt con. Và hơn thế nữa, ông đã dồn hết tình yêu thương con và nỗi nhớ của mình vào làm chiếc lược ngà tặng con. Ông cưa từng chiếc răng cẩn thận và tỉ mỉ, ông “tẩn mẩn” khắc từng nét chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Mỗi lần nhớ con, ông lại mang cây lược ra ngắm và lên mái tóc mình cho cây lược thêm bóng. Ông Sáu đã dồn hết tình cảm mình dành cho con vào việc làm chiếc lược ngà, chiếc lược ấy chính là kết tinh cho nỗi nhớ, cho tình yêu thương sâu sắc mà ông dành cho bé Thu. Tình yêu thương con sâu sắc của ông Sáu còn được thể hiện rõ nét qua chi tiết ông Sáu hi sinh. Trong những phút giây cuối cùng ít ỏi còn lại của cuộc đời mình, ông Sáu đã nhờ đồng đội trao lại chiếc lược ngà cho bé Thu. Và rồi, sau này, chiếc lược ấy đã được trao tận tay cho Thu, điều đó cho thấy, tình cha con không hề chết, không hề mất đi mà nó trở thành điểm tựa để bé Thu khôn lớn và trưởng thành.
Tóm lại, truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang sáng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc mọi thế hệ không chỉ bởi tình huống truyện độc đáo, nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn mà hơn hết chính bởi sự ấm áp vô ngần của tình cảm cha con cao quý trong hoàn cảnh của cuộc chiến tranh gay go, ác liệt.
2. Cảm nhận đoạn trích Chiếc lược ngà, mẫu số 2 (Chuẩn):
Nguyễn Quang Sáng (1932-2014), là một trong những tác giả nổi tiếng trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, từng là một người lính tham gia vào các chiến trường Nam Bắc thế nên các tác phẩm của ông luôn mang đậm hơi thở của thời đại. Trong hơn nửa thế kỷ chiến đấu và cầm bút ông đã để lại một số lượng tác phẩm lớn không thua kém gì so với các nhà văn cùng thời. Trước năm 1975 các sáng tác của ông chủ yếu là về đề tài người lính với những mất mát và đau thương trong chiến đấu, với bằng giọng văn mộc mạc, bình dị đậm chất người dân Nam Bộ ông đã tự tạo riêng cho mình một phong cách sáng tác không thể nhầm lẫn với bất cứ nhà văn nào khác. Chiếc lược ngà không phải là tác phẩm đầu tay nhưng lại là tác phẩm đẩy tên tuổi của Nguyễn Quang Sáng vụt lên nổi bật so với các tác giả đương thời. Đọc truyện ngắn ta mới thấu hiểu được rằng sự tàn ác, khốc liệt của chiến tranh không hẳn chỉ là những trận mưa bom bão đạn, những lần đổ máu trên chiến trường mà nó còn len lỏi tận vào hậu phương, len lỏi vào không gian gia đình, cắt vào trái tim mỗi con người những vết thương vô hình vô dạng nhưng đau đớn kéo dài cả cuộc đời. Có thể nói rằng Chiếc lược ngà là một tác phẩm có cái nhìn mới về nỗi đau cũng như những bi kịch trong chiến tranh ở một phương diện khác, một bộ mặt khác tàn bạo hơn của chiến tranh.
Nhan đề Chiếc lược ngà vốn là một chi tiết rất quan trọng trong tác phẩm, nó là mơ ước của bé Thu và nó cũng tượng trưng cho tình cảm cha con sâu nặng của ông Sáu với cô bé Thu từ lúc còn sống cho đến cả lúc hy sinh. Ông vẫn chấp niệm chưa được gặp con lần nữa để tận tay tặng cho cô bé chiếc lược mà ông đã cặm cụi tỉ mỉ khắc vẽ, đẽo gọt bằng cả trái tim, bằng tất cả những tình yêu thương dồn nén, trong đó có cả sự hối hận, tiếc nuối vì đã trách phạt cô bé trong lần đầu tiên gặp mặt mà cũng là lần cuối cùng. Hình ảnh chiếc lược ngà cũng là kỷ vật cuối cùng mà ông Sáu để lại cho con, đồng thời cũng khắc sâu nỗi đau đớn mà chiến tranh đã để lại trong mỗi gia đình, sự mất mát, đau thương, sự chia cắt, tất cả chỉ còn lại một hình bóng người cha mơ hồ và một chiếc lược ngà được khắc bằng tất cả nỗi nhớ mong.
Cảm nhận về đoạn trích Chiếc lược ngà, văn mẫu chọn lọc
Toàn bộ câu chuyện xoay quanh hai tình huống éo le và đau đớn, đó là cảnh ông Sáu được về thăm nhà sau tám năm xa cách, trước nỗi mong nhớ xúc động được gặp đứa con gái bé bỏng mà ông đã xa nó từ năm nó chưa đầy tuổi, thì đắng cay sao nó lại không chịu gặp ông, nó xa lánh và sợ hãi người cha như ông, điều đó khiến ông đau xót và ngỡ ngàng, thậm chí đã nổi giận mà đánh con. Tình huống truyện thứ hai cũng éo le không kém, sau khi bé Thu đã thấu hiểu vì sau ba nó lại khác trong ảnh, nó quay về để nhận ba thì cũng là lúc ông Sáu phải quay trở lại đơn vị, cuộc gặp gỡ ngắn ngủi đã để lại trong lòng cả hai cha con những kỷ niệm, những xúc động khôn tả, nhưng thật xót xa khi đó cũng là lần cuối mà hai cha con còn được gặp mặt, chiến tranh đã cướp đi ông Sáu mãi mãi và chỉ để lại cho bé Thu một chiếc lược ngà.
Trước hết về nhân vật bé Thu, nhân vật này được tái hiện trong cuộc tái ngộ với ba trong vẻn vẹn ba ngày ngắn ngủi sau 8 năm xa cách, trong một không gian hẹp đó là ngôi nhà của gia đình ông Sáu. Trước khi nhận ông Sáu là cha thì sau tám năm xa cách những tưởng cuộc gặp gỡ sẽ đầy mừng tủi và ngập tràn hạnh phúc, thế nhưng trái với mong đợi bé Thu lại thể hiện một thái độ khác thường. Trong khi ông Sáu vô cùng xúc động, thì cô bé lại ngạc nhiên “tròn xoe mắt” rồi hoảng sợ, tái mặt đi bỏ chạy, và gọi má để cầu cứu. Trong suốt ba ngày phép khi ông Sáu cố gắng dồn hết tình cảm cho bé Thu để bù đắp 8 năm trời xa cách, để con bé cởi mở lòng mình nhận ông là ba, thì trái ngược cô bé lại lạnh nhạt, xa cách thậm chí là có hành động bài xích, ngang ngạnh bướng bỉnh, quyết không nhận ông là ba. Điều đó thể hiện qua nhiều chi tiết trong truyện ví như cô bé không chịu gọi ông Sáu là ba, khi bắt buộc phải giao tiếp thì nó chọn cách nói trổng, đỉnh điểm phải kể đến chi tiết, bé Thu hết trái trứng cá vàng mà ông Sáu gắp ra khỏi bát cơm làm cơm văng tung tóe khắp mâm. Chính sự kiện ấy đã làm tất cả những nỗi đau đớn, xót xa mà ông Sáu phải gánh chịu bấy lâu bùng nổ, ông dang tay đánh vào bé Thu và hét lên “Sao mày cứng đầu quá vậy hả?”. Những tưởng rằng bé Thu sẽ hiểu ra, sẽ biết sợ, nhưng không cái cá tính đanh đá trong người cô bé đã khiến nó vùng dậy chạy sang nhà bà ngoại để nương nhờ chứ quyết không nhận ông Sáu làm cha. Và thật may mắn rằng chính chuyến đi này của con bé mới chính là nơi gỡ nút thắt trong lòng của Thu, hóa ra không phải Thu ghét ba, không thương ba hay cứng đầu ngoan cố mà trái lại vì cô bé quá yêu thương ba, người ba trẻ trung, khuôn mặt không có vết sẹo trong tấm ảnh mà mẹ vẫn thường cho nó coi. Giờ đây khi gặp người đàn ông với vết sẹo ngang mặt dữ tợn, nó không thể nhận ra, và càng không thể chấp nhận gọi ông một tiếng “ba”, đơn giản vì nó trung thành với người ba trong ảnh, nó cho rằng ông Sáu không phải ba ruột của nó. Chi tiết ấy khiến trái tim người đọc thắt lại, nhìn xem chiến tranh đã để lại gì trong trái tim một đứa bé nhỏ, một người cha tội nghiệp, đó đâu phải chỉ là vết sẹo dài trên mặt mà đó là vết sẹo trong tình cảm của cả một gia đình. Việc miêu tả thái độ khác thường của bé Thu của tác giả đã tái hiện được cái nghịch cảnh éo le mà chiến tranh đã gây ra cho mỗi con người, không phải chỉ là sự chịu đựng gian khổ của người lính nơi chiến trường mà đó còn là sự đớn đau, khổ sở của cả những con người ở hậu phương, đặc biệt là những đứa trẻ thiếu thốn tình cảm của người cha như bé Thu. Đồng thời cũng thể hiện những nét tính cách đặc sắc của bé Thu, hồn nhiên, bướng bỉnh, cá tính và vô cùng yêu thương cha mình, đặc biệt cách mà bé Thu từ chối tình cảm của ông Sáu cũng là một cách để cô bé bộc lộ tình cảm yêu cha vô cùng sâu nặng, thắm thiết. Đến khi cô bé hiểu ra, hối hận quay về nhà để gặp ba thì trái ngang thay ông Sáu lại phải quay về đơn vị tập kết, cảnh cô bé hét lên tiếng “ba” thật dài thật vang đó “như là tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan của mọi người” xót xa biết bao nhiêu. Lúc này đây tất cả tình cảm với người cha mà con bé hằng mong chờ 8 năm trời dường như đã vỡ ra bằng hết trong tiếng gọi của nó, từng cái hôn vội vã của con bé dành cho ba nó như là cố thể hiện tất cả những tình cảm mà nó hằng cất giữ, tóc gáy nó dựng lên vì xúc động, có lẽ chẳng có giây phút nào xúc động hơn thế nữa. Và rõ ràng rằng hành động của con bé không chỉ dừng lại ở sự yêu thương vô bờ bến với ông Sáu mà còn là nỗi sợ hãi vô hình, có lẽ rằng con bé đã linh cảm được lần đi này của ông Sáu là một đi không trở lại, thế nên nó không muốn để ông đi dù chỉ một chút, nó chỉ muốn ông ở nhà với nó, 8 năm trời xa cách đã để lại trong lòng nó quá nhiều nỗi nhớ thương sâu sắc. Chi tiết cô bé chia tay ba với ao ước được ba mua cho cây lược ngà, cho thấy cô muốn có một vật kỷ niệm của ba để được thấy ba luôn bên mình, đồng thời nó cũng như là một sợi dây để gắn kết giữa Thu và ông Sáu, lời dặn dò, niềm ao ước của cô bé chính là động lực để ông Sáu chiến đấu một cách ngoan cường mạnh mẽ, để sớm được trở về trao cho con gái yêu chiếc lược ngà mà cô vẫn hằng mong ước. Đặc biệt chi tiết chiếc lược ngà dường như đã xóa tan mọi khoảng cách 8 năm li biệt, xóa mờ đi sự dữ tợn của vết sẹo, chỉ còn lại niềm yêu thương gắn bó sâu sắc của cặp cha con bình thường giữa gia đình. Có thể nói rằng sự chuyển biến trong tình cảm của bé Thu đã lần nữa tô đậm tình yêu thương sâu sắc của cô bé đối với ông Sáu, qua đó thấy được hình ảnh một cô bé dẫu có bướng bỉnh, ngoan cố nhưng thực tế ẩn chứa trong đó là nỗi niềm mong nhớ cha, khát khao được yêu thương nồng đậm trong tâm hồn còn non trẻ.
Hình ảnh ông Sáu cũng hiện lên qua hai phân đoạn trong không gian trải dài từ căn nhà của ông đến tận chiến trường, trong một khoảng thời gian khá dài, dường như nó ôm ấp hết tất cả những tình cảm cũng như tấm lòng yêu thương của bé Thu trong đó. Sau 8 năm xa cách, ông quay về nhà để gặp đứa con gái bé bỏng với niềm vui và nỗi xúc động khôn tả, thì đớn đau thay cô bé ấy chẳng những bài xích xem ông như người xa lạ, cướp mất chỗ của ba nó, thậm chí khi bị dồn đến đường cùng nó vẫn kiên quyết chống lại ông, chống lại tất cả những sự quan tâm ân cần mà ông dùng bằng hết sự yêu thương trong 8 năm để bù đắp cho nó. Điều ấy khiến ông Sáu vốn là người đàn ông đã lăn lộn bao năm trong chiến trường đau đớn còn hơn cả những lần bị thương bởi mảnh bom mảnh đạn ngoài trận tuyến. Khuôn mặt người đàn ông cương nghị có lúc “sầm lại trông thật đáng thương”, còn “hai tay buông xuống như bị gãy”, phải đau khổ, xót xa và thất vọng nhường nào mới khiến người đàn ông từng trải bom đạn phải uể oải, chán chường đến thế. Có những phân đoạn bé Thu nói trổng, không chịu gọi ông tiếng “ba”, khiến lòng ông thắt lại cái cười lắc đầu của ông thực tế là do đau quá không khóc nổi nên đành cười để che lấp đi. Sự tổn thương nỗi đau đớn khó có thể chịu đựng thường khiến con người ta dễ nổi giận và ông Sáu đã phạm sai lầm khi ra tay trách phật bé Thu, điều đó khiến ông mãi hối hận đến tận khi nhắm mắt xuôi tay. Có thể nói rằng chiến tranh đã đem đến cho cả ông và bé Thu những bi kịch vô cùng sâu sắc, cảnh hội ngộ cứ tưởng là hạnh phúc thì lại trở thành nỗi dằn vặt đớn đau trong cả 3 ngày trời, đế lúc ngỡ tưởng hạnh phúc bừng cháy thì cũng là lúc ông Sáu buộc phải đi xa và đó cũng là lần đi xa mãi không trở về. Khi trở lại chiến khu bi kịch vẫn không thôi giày vò người đàn ông ấy, ông nhớ con đến quặn từng khúc ruột, thêm sự day dứt, hối hận vì một lần đánh con, làm tổn thương con bé khiến ông Sáu không ngừng buồn bã. Chỉ đến khi bắt đầu làm chiếc lược ngà bằng tất cả tâm huyết, sự tỉ mẩn, tình yêu thương vô bờ thì ông Sáu mới dần nguôi ngoai nỗi hối hận và tình yêu đối với con lại càng trở nên sâu sắc. Thậm chí đến lúc hy sinh, dù đang hấp hối nhưng ông vẫn chỉ nhớ về Thu, đứa con gái ông hết lòng yêu thương, đôi mắt nhờ cậy người đồng đội mang chiếc lược ngà về cho con đã trở thành điểm sáng là dấu ấn đặc sắc và xúc động bậc nhất của câu chuyện về tình cảm cha con của ông Sáu và bé Thu sau phân khúc nhận nhau của hai cha con.
Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng là câu chuyện vô cùng cảm động về tình cảm gia đình đặc biệt chính là tình cảm cha con của ông Sáu và bé Thu trong thời kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ đầu gian khổ. Từ đó cho độc giả một cái nhìn mới về sự tàn phá, khốc liệt của chiến tranh, nó không chỉ tàn phá đất nước, cướp đi sinh mạng của con người, không chỉ riêng những con người ở tiền tuyến phải chịu đựng cảnh gian khó, hy sinh xương máu mà nghiêm trọng hơn nó còn chính là nguyên nhân làm chia cắt gia đình, để lại cho con người những nỗi đau, những lỗ hổng trong trái tim chẳng bao giờ có thể lấp đầy bằng thứ gì khác.
3. Cảm nhận đoạn trích Chiếc lược ngà, mẫu số 3:
Tình phụ tử là thứ tình cảm vô cùng thiêng liêng và cao cả. Nếu tình mẫu tử là “nước trong nguồn” êm ái, nhẹ nhàng thì tình cảm cha dành cho con là “núi Thái Sơn”, vĩ đại, mạnh mẽ, bền bỉ và dài lâu. Với sự chiêm nghiệm đó, Nguyễn Quang Sáng đã viết tác phẩm Chiếc lược ngà, một truyện ngắn gây xúc động lòng người về tình cảm của cha con ông Sáu và bé Thu trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt. Vỏn vẹn trong vài ngày ông Sáu về thăm nhà, đoạn trích ngắn từ câu chuyện đã lấy đi bao nước mắt người đọc, thấu cảm về tình cha con, tình yêu thương gia đình máu mủ ruột già không gì có thể so sánh được và đặc biệt là tình cảm bền bỉ bé Thu dành cho người cha của mình.
Được sáng tác vào năm 1966, khi tác giả vừa là nhà văn, vừa là người lính tham gia chiến trường Nam Bộ, tác phẩm lấy bối cảnh tại một vùng quê sông nước. Ông Sáu, người lính dạn dày lão luyện có dịp về thăm nhà trong mấy ngày nghỉ phép. Tạm xa cảnh đạn bom loạn lạc, ông về với vợ và bé Thu – con gái ông. Nhưng thật éo le, cô con gái ông mới chỉ gặp một lần nhất định không chịu nhận cha, thậm chí còn hỗn láo, ruồng bỏ ông. Trong hoàn cảnh như vậy, người đọc không chỉ thấy được tình cảm mãnh liệt hai cha con giữ trọn cho nhau mà còn có những giọt nước mắt thương cảm cho cuộc sống quá đỗi khó khăn, vất vả, li tán của thời kì cách mạng. Tình cảm của bé Thu dành cho cha, tình yêu của ông Sáu dành cho con không được thốt bằng lời, nhưng từng suy nghĩ, từng cử chỉ hành động của hai nhân vật đều cho thấy, tình phụ tử thiêng liêng không thể bị chiến tranh bào mòn mà chính những chia cắt, những khổ đau ấy đã góp phần khẳng định sự mãnh liệt của sợi dây gia đình.
Người đọc rất dễ ấn tượng bởi cô bé Thu vừa tinh nghịch, hiếu động, cứng đầu, vừa yêu thương cha da diết. Sống với má, ba đi chiến đấu xa nhà, cô bé chỉ được nhìn thấy mặt qua tấm ảnh nhỏ hai người chụp chung. Trong kí ức của bé Thu, ba luôn là người đàn ông trong ảnh, là một người lính anh dũng qua lời kể của bà. Tình cảm cô dành cho cha tự nhiên được nuôi nấng dần dần, cô bé mong được gặp ba, mong được nhìn thấy ba ngoài đời thực như bước ra từ tấm ảnh chân dung. Cũng chính vì vậy, khi giáp mặt với ông Sáu, nay có một vết thẹo dài trên mặt do lăn lộn ngoài chiến trường, cô bé Thu vô cùng sợ hãi và bối rối. Không phải một đứa trẻ lao vào lòng ba sau tám năm đằng đẵng cách trở, không phải tiếng gọi thân thương đáng ra phải bật thốt ngay từ khi hai người gặp nhau, bé Thu tỏ rõ thái độ lạnh nhạt “chớp mắt nhìn như muốn hỏi”, sắc mặt “bỗng tái đi” và thậm chí là bỏ chạy và kêu “Má! Má”. Đối với em, ba của em không hề có vết thẹo dài “đỏ ửng, giật giật” lên mỗi khi xúc động, nên khi nhìn thấy ông Sáu tự xưng là ba mình, em nhất định cự tuyệt và chối bỏ. Cái ngây thơ, hồn nhiên nhưng cũng rất bảo thủ khiến người đọc vừa buồn cười, vừa thấy sống mũi cay cay. Cười vì cái tính cách trẻ con mà dứt khoát, đanh thép, nhất định không chịu gọi người lạ mặt là cha, buồn vì đồng cảm với nỗi đau của ông Sáu khi con không chịu nhận mình, buồn vì hoàn cảnh chiến tranh đã chia rẽ tình cha con nồng nàn thắm thiết.
Sau cuộc gặp gỡ không như mong đợi, ông Sáu hiểu được sự thiếu thốn về mặt tình cảm của con nên càng ra sức cố gắng chăm sóc Thu, tìm cách được ở gần con nhiều hơn. Nhưng ông càng cố, bé Thu càng khước từ.
Cảm nhận của em về đoạn trích Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng
Trong hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan, khi được mẹ giao nhiệm vụ chắt nước nồi cơm, vì nồi cơm to không thể bắc xuống đượ c, ai cũng nghĩ cô béThu buộc phải gọi ba để nhờ ông Sáu giúp. Nhưng không, sau cái nhìn “dáo dác” là câu nói trống không: “Cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái!”. Ngay cả khi ông Sáu không giúp đỡ để khiến bé Thu bật ra câu gọi ba, cô bé chấp nhận lấy cái gáo múc từng chút nước, “miệng lẩm bẩm điều gì đó không rõ” chứ không hề hé miệng nhận ông Sáu là ba mình. Được mẹ bảo gọi ba vào ăn cơm, cô bé cũng nói trổng “Vô ăn cơm!”, “Cơm chín rồi!”. Những câu nói không chủ không vị ấy có thể là những lời xấc xược, nhưng sâu thẳm trong đó là niềm tin, là tình yêu của bé Thu dành cho cha. Cô bé tin rằng, ba mình phải là người đàn ông trong ảnh, còn người đang ngồi trong nhà với vết sẹo đáng sợ kia không phải ba, nên dù thế nào, cô cũng nhất định từ chối gọi. Tình cảm mãnh liệt ấy được đẩy lên cao trào qua chi tiết bé Thu hất đổ cả chén cơm khi ông Sáu gắp cho nó cái trứng cá. Thu “lấy đũa xoi vào chén, để đó rồi bất thần hết cái trứng cá ra, cơm văng tung tóe cả mâm”. Sau cái đánh vào mông và lời quát giận dữ của ông Sáu, bé Thu không khóc la mà chỉ “ngồi im, đầu cúi gằm xuống”, “cầm đũa, gắp lại cái trứng cá để vào chén, rồi lặng lẽ đứng dậy bước ra khỏi mâm” và đi sang nhà bà ngoại, không quên “làm cho dây lòi tói khua rổn rảng thật to”. Sự đấu tranh tư tưởng của bé gái tám tuổi khiến người đọc có chút rung mình. Một bé gái nhỏ tuổi lại có tính cách mạnh mẽ, gan góc đến như vậy. Nhận được sự quan tâm của người tự xưng là cha, cô bé không hề nao núng, cũng không hề tâm sự, hỏi mẹ rằng tại sao người lạ kia lại ở nhà mình mà nhất định không chịu mở lòng. Trong tâm niệm của cô, cha chỉ có một, và dù có ai đối xử tốt với cô bé thế nào cũng không thể thay thế bóng hình quen thuộc qua tấm ảnh mờ cũ kĩ cô nhìn thấy. Tiếng “ba” cao cả và thiêng liêng ấy em sẽ không thể dễ dàng dành cho ai khác, tình cảm độc nhất của em dành cho ba không gì có thể thay thế được. Hành động của cô bé không hề hỗn hào, đáng ghét mà trái lại, rất nhân văn và đậm tình người. Một cô bé bướng bỉnh nhưng hiểu chuyện, tôn trọng tình cảm và yêu ba da diết như vậy thật đáng được ngợi ca.
Tình cảm của bé Thu đối với cha đã lấy đi không ít nước mắt người đọc ở những chi tiết cuối truyện, khi ông Sáu chuẩn bị lên đường trở lại chiến khu. Sau một đêm ở nhà bà ngoại, được bà giải thích, kể chuyện, cô bé “lăn lộn”, “thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Có lẽ em đang tự trách mình, rằng tại sao lại không hỏi mẹ, hỏi bà về vết sẹo trên mặt ba, rằng tại sao bản thân lại hư đốn, làm ba đau lòng, rằng tại sao không gọi một tiếng “ba” ngay kho ông Sáu trở về. Nỗi ân hận dẫn đến hành động cụ thể, hành động quyết định lớn lao của một cô bé ngây thơ, trong sáng. Về tới nhà, nhìn mọi người đến rất đông, mẹ thì tất bật chuẩn bị gói ghém đồ đạc, cô bé “lúc đứng vào góc nhà”, “lúc đứng tựa cửa”, vẻ mặt “sầm lại buồn rầu, cái vẻ buồn trên gương mặt ngây thơ”, nhìn ba “với vẻ nghĩ ngợi sâu xa”. Nghe những câu nói cuối cùng của ông Sáu, bé Thu bỗng “kêu thét lên” tiếng “Ba…a…a…ba!” đầy cảm động, như “xé sự im lặng”, tiếng “Ba” cố đè nén trong bao nhiêu năm, tiếng “Ba” như vỡ tung trong lòng. Cô bé ương bướng mới chỉ hôm qua còn ngang ngạnh biết mấy, giờ lại “dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó”, “nói trong tiếng khóc”, :hôn tóc, hôn cổ”, “hôn vai” và “hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”. Tình cảm thầm lặng nuôi dưỡng trong suốt tám năm nay đã được bộc lộ, Giữa hai cha con, chẳng còn bom đạn nào, chẳng có khoảng cách nào có thể chia rẽ được nữa. Không muốn rời xa ba, bé Thu dùng cả tay, cả chân “câu chặt lấy ba” cùng câu nói trong tiếng nức nở:” Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!”. Một tình cảm trong trẻo và chân thật, một thái độ khác hoàn toàn với bé Thu ương bướng, cô bé yêu cha biết mấy, thương cha biết nhường nào, nhưng giờ đây khi hai cha con được gặp nhau cũng là lúc ông Sáu phải quay trở lại tập kết. Tiếng gọi của trái tim, tình phụ tử có muộn màng nhưng thật sự mãnh liệt và quý báu.
Cả tuổi thơ thiếu thốn tình thương của cha, cô bé chỉ biết nuôi trong mình một khát khao được gặp, được nhìn thấy ba bằng xương bằng thịt. Không nhận ông Sáu là ba cũng chỉ vì ông trông không giống người ba mà em tưởng tượng, đến khi hiểu thấu mọi chuyện, tiếng lòng của em gọi “ba” sao mà đắng cay, thê lương đến thế. Chiến tranh đã chia cắt biết bao gia đình, vợ mất chồng, mẹ mất con, con mất cha,… nỗi đau ấy được khắc họa trọn vẹn qua tình cảm của cô bé. Chẳng dám mong mỏi đến ngày hai ba con được cùng nhau đi chơi trong cảnh hòa bình, bé Thu gọi ba trong nước mắt, trong sự chứng kiến của những người làng xóm thân thiết. Tình cảm vĩ đại ấy có lẽ không thể tàn phai trong lòng độc giả. Từ tiếng gọi, tiếng khóc cho đến ánh mắt mênh mông xao động của bé Thu sẽ mãi đọng lại, như một minh chứng mãnh liệt cho tình cha con bền bỉ và vững vàng giữa những người cùng chung huyết thống.
Khai thác tâm lý nhân vật khéo léo và chuyên sâu cùng sự am hiểu diễn biến cảm xúc nhân vật, tác giả đã thổi hồn vào cô bé Thu những tính cách điển hình của một bé gái, có hiếu động, có ngang bướng, có kiên cường và có cả tình yêu cha chân thành. Đọc Chiếc lược ngà, tình cảm giữa hai cha con có lẽ là thành công lớn nhất mà tác giả truyền tải được, đặc biệt là tình cảm của bé Thu dành cho ông Sáu. Người ta như thấy chính mình trong nhân vật, cũng như thấy chính con mình trong hình tượng bé Thu, gần gũi, sinh động, đáng yêu mà đáng quý.
Truyện ngắn Chiếc lược ngà khép lại, tuy không phải là kết thúc có hậu nhưng lại vô cùng hạnh phúc. Tiếng gọi “ba” trong tâm khảm được cất lên là lời khẳng định đanh thép về tình cảm cha con ruột thịt cháy bỏng. Đồng thời, qua đây, tác giả lên án chiến tranh tàn khốc, cuộc chiến phi nghĩa đã chia cắt biết bao gia đình, gây ra tình huống éo le, đau đớn cho bao nhiêu đứa trẻ, bao nhiêu người cha, người mẹ. Nguyễn Quang Sáng không chỉ kể đến tình người, tình cảm giàu đẹp giữa hoàn cảnh khó khăn, gian nan nhất của dân tộc mà còn là đạo lý, đạo làm người, đạo làm con cái đối với cha mẹ một tình thương, sự tôn trọng và biết ơn sâu sắc.
——————-HẾT———————
Để việc tìm hiểu và phân tích truyện ngắn Chiếc lược ngà có hiệu quả, bên cạnh việc tham khảo bài văn Cảm nhận của em về đoạn trích Chiếc lược ngà, các em có thể tìm đọc thêm trong tài liệu Bài văn hay lớp 9 một số bài viết sau: Chiếc lược ngà là bản tình ca về tình phụ tử, Cảm nhận về tình cảm của nhân vật ông Sáu dành cho con trong truyện Chiếc lược ngà,Phân tích truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng, Suy nghĩ của em về tình cảm cha con trong chiến tranh qua văn bản Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng.
Đăng bởi: THPT Ngô Thì Nhậm
Chuyên mục: Giáo Dục